Thứ Năm, 1 tháng 10, 2020

Thấu Thiên Huyền Cơ

 

Thấu Thiên  Huyền Cơ

 

透天玄機

(鐵冠數)

Thấu Thiên Huyền Cơ

(Thiết Quan Số)

鐵冠道人-劉伯溫

Thiết Quan Đạo Nhân- Lưu Bá Ôn

 

此書系鐵冠道人與劉伯溫先生對話,名曰透天玄機”,又名鐵冠數”. 以三元推算一萬五千年,二百七十劫數。盡天地之氣運,繞輪—周,治亂興亡,頗著神驗.

 Phiên âm

Thử thư hệ Thiết Quan Đạo Nhân dữ Lưu Bá Ôn tiên sinh đối thoại, danh viết Thấu Thiên Huyền Cơ, hựu danh Thiết Quan Số. Dĩ Tam Nguyên suy toán nhất vạn ngũ thiên niên, nhị bách thất thập kiếp số. Tận Thiên Địa chi khí vận, nhiễu luân nhất chu, trị loạn hưng vong, pha trứ Thần nghiệm.

Tạm dịch

Sách này là từ cuộc nói chuyện của Thiết Quan Đạo Nhân với Lưu Bá Ôn tiên sinh, tên là Thấu Thiên Huyền Cơ, cũng gọi là Thiết Quan Số. Lấy Tam Nguyên tính ra 15.000 năm, 270 kiếp số. Hết mọi khí vận của Trời Đất, vòng quanh một vòng, yên vui hay rối ren, dấy lên hay mất đi, rất rõ ràng linh nghiệm.

 

元代末年,劉伯溫出游于華山至空峰幽谷洞中,見一道人,号曰虛靈子,即鐵冠道人玄真乃隆德僧人.能養精練氣,詳識三元之氣數.周天之劫數.禍福吉凶,盈虛消長及一切天文地理,陰陽順逆.無不通曉.伯溫跪立告曰:“弟子好學,忽迷心竅,不知吉凶.願拜爲師,祈指妙理玄機,與人推算得失.道入曰: “爾乃文曲降世,輔佐紫微.吾指明實理,慎之切勿泄漏”. 伯溫拜而受之,僧人以天文地理,奇門遁甲,陰陽逆順,星斗分野,并推測中外華夷一切吉凶及一萬五千年三元劫數,盡教于伯溫.

Phiên âm

Nguyên đại mạt niên, Lưu Bá Ôn xuất du vu Hoa Sơn chí không phong u cốc động trung, kiến nhất đạo nhân, hiệu viết Hư Linh Tử, tức Thiết Quan đạo nhân Huyền Chân, nãi Long Đức tăng nhân. Năng dưỡng tinh luyện khí, tường thức Tam Nguyên Khí Số, Chu Thiên chi Kiếp Số, họa phúc cát hung, doanh hư tiêu trưởng cập nhất thiết Thiên Văn Địa Lý, Âm Dương thuận nghịch, vô bất thông hiểu. Bá Ôn quỵ lập cáo viết:

Đệ tử hiếu học, hốt mê tâm khiếu, bất tri cát hung. Nguyện bái vi sư, kỳ chỉ diệu lý huyền cơ, dữ nhân suy toán đắc thất.

Đạo nhân viết:

Nhĩ nãi Văn Khúc giáng thế, phụ tá Tử Vi. Ngô chỉ minh thực lý, thận chi thiết vật tiết lậu.

Bá Ôn bái nhi thụ chi, tăng nhân dĩ Thiên Văn Địa Lý, Kỳ Môn Độn Giáp, Âm Dương thuận nghịch, Tinh Đẩu phân dã, tính suy trắc Trung Ngoại Hoa Di nhất thiết cát hung cập nhất vạn ngũ thiên niên tam nguyên kiếp số, tận giáo vu Bá Ôn.

Tạm dịch

Hồi cuối nhà Nguyên, Lưu Bá Ôn đi chơi ở Hoa Sơn, đến một chỗ núi non vắng vẻ, gặp một đạo nhân, hiệu là Hư Linh Tử, tức là Thiết Quan đạo nhân, lại là thày sãi Long Đức. Có thể dưỡng tinh luyện khí, biết rõ khí số của Tam Nguyên, kiếp số của Chu Thiên, vạ hay may, lành hay dữ, đầy hay vơi, bé đi hay lớn lên, cùng hết thảy Thiên Văn, Địa Lý, Âm Dương xuôi ngược, không gì không suốt biết. Bá Ôn quỳ xuống thưa rằng:

Học trò ham học, đầu óc chợt u tối, chẳng biết lành dữ. Xin lạy làm thày, mong được dạy cơ mầu lẽ nhiệm.

Đạo nhân bảo:

Nhà ngươi là sao Văn Khúc xuống đời, giúp rập cho sao Tử Vi. Ta nói rõ lẽ chân thực, giữ gìn chớ có được rò rỉ ra.

Bá Ôn lạy vâng theo. Thày sãi lấy các môn Thiên Văn, Địa Lý, Kỳ Môn Độn Giáp, Âm Dương xuôi ngược, vùng của Tinh Đẩu, cùng với việc đoán xem lành dữ của nước Tàu và các nước xung quanh, và kiếp số Tam Nguyên 15.000 năm, hết thảy dạy cho Bá Ôn.

 

1

 

伯溫問曰:

何爲三元劫數?

道人曰:

三元者,九宮之中總元上三元,中三元,下三 元,共合三元,一萬五千年爲一元.一元運五會,五會運六劫,五百年一遭天地九宮運氣,即十二支辰運氣,即天地亦不能逃此劫數.上三元乃五宮黃道爲統,中三元爲八宮白道爲統,下三元二宮黑道爲統.九宮者,即一白二黑三碧四綠五黃六白七赤八白九紫也.五宮乃中央定位,運行八方天道也,所以爲上元之首,二宮乃神位昏臨之地也,所以爲下元之首,八宮乃太陽照臨之處,人道也,所以爲中元之首,三元與支辰爲會,會盡則天地氣數亦盡,除子丑二辰乃天地開辟之時也,人物尚無,三元至寅時,方有九宮純與在元爲會.

上上元甲子黃道主事,正交寅時,這一萬五千年内,氣運靜定,日長夜短,人生毛角,壽延千百歲,不争不分,人物渾渾, 此太古人也.

上中元甲子白道主事,正交卯時,這一萬五千年内,氣運主靜,天道行授,人身長丈餘,壽延千至六七百歲,營巢穴居,無衣無食,此上古人也.

上下元甲子赤道主事,正交辰時,這一萬五千年内,氣運正動,水火用事,人身長丈餘,壽延六百歲至三四百歲,有母無父,物産始分,此中古之人也.

中上元甲子黃道主事,正交巳時,這一萬五千年内,氣運正動,生識生知,人身長八九尺,壽延一百三十歲,地平天成,五倫始判,此守息之人也.

中中元甲子紫道用事,正交午時,這一萬五千年内,氣運極動,百物俱備,人身長五六尺,壽延百歲至七八十歲,有名有利巧變百出,此奔波之人也.

中下元甲子白道主事,正交未時,這一萬五千年内,氣運亂動,百物消乏,人長四五尺,壽延五六十歲至四十歲,嗔貪迷戀,禮樂喪失,此沉迷之人也.

下上元甲子黑道主事,正交申時,這一萬五千年内,氣運不正,天文無度,人長三四尺,壽延四五十歲,百事奸貪,并無法紀,此遭劫之人也.

下中元甲子碧道主事,正交酉時,這一萬五千年内,氣運亂動,星斗散沉,人長三四尺,壽延三四十歲,衣食颠倒,寒暑無時,此鬼形之人也.

下下元甲子綠道主事,正交戌時,這一萬五千年内,氣運将滅,日月無光,人長二三尺,壽延二三十歲,猶如一狗,出入畏憂,多黑少白,此螻蟻之人也.

至亥時,則三元氣絕,只有支辰餘氣連絡不絕.至子時,則一氣生,陰陽定位,星斗生光,復返原始,二氣包羅萬象,丑時轉運,三元會辰,再生聖人,治化世界,上上元甲子復來,天氣運日三分.一萬五千年爲循環之理,周而復始,五百年乃三元運會之劫數,三十次,皆三百六十之數,俱是陰陽之理.

Phiên âm

Lưu Bá Ôn viết:

Hà vi Tam Nguyên kiếp số?

Đạo nhân viết:

Tam Nguyên giả, Cửu Cung chi trung tổng Nguyên, Thượng Tam Nguyên, Trung Tam Nguyên, Hạ Tam Nguyên, cộng hợp Tam Nguyên, nhất vạn ngũ thiên niên vi nhất Nguyên. Nhất Nguyên vận ngũ Hội, ngũ Hội vận lục Kiếp, ngũ bách niên nhất tao Thiên Địa Cửu Cung vận khí, tức thập nhị Chi Thần vận khí, tức Thiên Địa bất năng đào thử kiếp số. Thượng Tam Nguyên nãi ngũ cung Hoàng đạo vi thống, Trung Tam nguyên vi bát cung Bạch đạo vi thống, Hạ Tam Nguyên nhị cung Hắc đạo vi thống. Cửu cung giả, nhất Bạch nhị Hắc tam Bích tứ Lục ngũ Hoàng lục Bạch, thất Xích bát Bạch cửu Tử dã. Ngũ cung nãi trung ương định vị, vận hành bát phương Thiên đạo dã, sở dĩ vi Thượng Nguyên chi thủ, nhị cung nãi Thần vị hôn lâm chi địa dã, sở dĩ vi Hạ Nguyên chi thủ, bát cung nãi Thái Dương chiếu lâm chi xứ, nhân đạo dã, sở dĩ vi Trung Nguyên chi thủ, Tam Nguyên dữ Chi thần vi hội, hội tận tắc Thiên Địa khí số diệc tận, trừ Tý Sửu nhị thần nãi Thiên Địa khai tịch chi thời dã, nhân vật thượng vô, Tam Nguyên chí Dần thời, phương hữu cửu cung thuần dữ tại Nguyên vi hội.

Thượng Thượng Nguyên Giáp Tý Hoàng đạo chủ sự, chính giao Dần thời, giá nhất vạn ngũ thiên niên nội, khí vận tĩnh định, nhật trường dạ đoản, nhân sinh mao giác, thọ diên thiên bách tuế, bất tranh bất phân, nhân vật hồn hồn, thử thái cổ dã.

Thượng Trung Nguyên Giáp Tý Bạch đạo chủ sự, chính giao Mão thời, giá nhất vạn ngũ thiên niên nội, khí vận chủ tĩnh, Thiên đạo hành thụ, nhân thân trường trượng dư, thọ diên thiên chí lục thất bách tuế, doanh sào huyệt cư, vô y vô thực, thử thượng cổ dã.

Thượng Hạ Nguyên Giáp Tý Xích đạo chủ sự, chính giao Thìn thời, giá nhất vạn ngũ thiên niên nội, khí vận chính động, thủy hỏa dụng sự, nhân thân trường trượng dư, thọ diên lục bách tuế, hữu mẫu vô phụ, vật sản thủy phân, thử trung cổ chi nhân dã.

Trung Thượng Nguyên Giáp Tý Hoàng đạo chủ sự, chính giao Tỵ thời, giá nhất vạn ngũ thiên niên nội, khí vận chính động, sinh thức sinh tri, nhân thân trường bát cửu xích, thọ diên nhất bách tam thập tuế, Địa bình Thiên thành, ngũ luân thủy phán, thử thủ tức chi nhân dã.

Trung Trung Nguyên Giáp Tý Tử đạo chủ sự, chính giao Ngọ thời, giá nhất vạn ngũ thiên niên nội, khí vận cực động, bách vật câu bị, nhân thân trường ngũ lục xích, thọ diên bách tuế chí thất bát thập tuế, hữu danh hữu lợi, xảo biến bách xuất, thử bôn ba chi nhân dã.

Trung Hạ Nguyên Giáp Tý Bạch đạo chủ sự, chính giao Mùi thời, giá nhất vạn ngũ thiên niên nội, khí vận loạn động, bách vật tiêu phạp, nhân thân trường tứ ngũ xích, thọ diên ngũ lục thập tuế chí tứ thập tuế, sân tham mê luyến, lễ nhạc tấng thất, thử trầm mê chi nhân dã.

Hạ Thượng Nguyên Giáp Tý Hắc đạo chủ sự, chính giao Thân thời, giá nhất vạn ngũ thiên niên nội, khí vận bất chính, thiên văn vô độ, nhân trường tam tứ xích, thọ diên tứ ngũ thập tuế, bách sự gian tham, tính vô pháp kỷ, thử tao kiếp chi nhân dã.

Hạ Trung Nguyên Giáp Tý Bích đạo chủ sự, chính giao Dậu thời, giá nhất vạn ngũ thiên niên nội, khí vận loạn động, tinh đẩu tán trầm, nhân trường tam tứ xích, thọ diên tam tứ thập tuế, y thực điên đảo, hàn thử vô thời, thử quỷ hình chi nhân dã.

Hạ Hạ Nguyên Giáp Tý Lục đạo chủ sự, chính giao Tuất thời, giá nhất vạn ngũ thiên niên nội, khí vận tương diệt, nhật nguyệt vô quang, nhân trường nhị tam xích, thọ diên nhị tam thập tuế, do như nhất cẩu, xuất nhập úy ưu, đa hắc thiểu bạch, thử lâu nghị chi nhân dã.

Chí Hợi thời, tắc Tam Nguyên khí tuyệt, chỉ hữu Chi thần dư khí liên lạc bất tuyệt, chí Tý thời, tắc nhất khí sinh, âm dương định vị, tinh đẩu sinh quang, phục phản nguyên thủy, nhị khí bao la vạn tượng, Sửu thời chuyển vận, Tam Nguyên hội thần, tái sinh Thánh nhân, trị hóa thế giới, Thượng Thượng Nguyên Giáp Tý phục lai, Thiên khí vận nhật tam phân. Nhất vạn ngũ thiên niên vi tuần hoàn chi lý, chu nhi phục thủy, ngũ bách niên nãi Tam Nguyên vận hội chi kiếp số, tam thập thứ, giai tam bách lục thập chi số, câu thị âm dương chi lý.

Tạm dịch

Lưu Bá Ôn hỏi:

Kiếp số của Tam Nguyên là như thế nào?

Đạo nhân trả lời:

Tam Nguyên là trong chín cung gồm các Nguyên: Thượng Tam Nguyên, Trung Tam Nguyên, Hạ Tam Nguyên, gộp lại Tam Nguyên, 15.000 năm làm 1 Nguyên. 1 Nguyên xoay vần 5 Hội, 1 Hội xoay vần 6 Kiếp, 500 năm 1 vòng vận khí 9 cung của Trời Đất, tức là vận khí của 12 Chi thần, Trời Đất cũng không thể tránh được kiếp số này. Thượng Tam Nguyên bởi cung 5 Hoàng đạo gồm tóm, Trung Tam Nguyên là cung 8 Bạch đạo gồm tóm, Hạ Tam Nguyên cung 2 Hắc đạo gồm tóm. Chín cung là: 1 Bạch-Trắng, 2 Hắc-Đen, 3 Bích-Biếc, 4 Lục-Xanh lá cây, 5 Hoàng-Vàng, 6 Bạch-Trắng, 7 Xích-Đỏ, 8 Bạch-Trắng, 9 Tử-Tím. Cung 5 đứng ở giữa, vận hành 8 phương Thiên đạo, vì vậy lấy Thượng Nguyên làm đầu; cung 2 là đất của Thần đến lúc buổi tối, vì vậy lấy Hạ Nguyên làm đầu; cung 8 là chỗ mặt trời soi đến, đạo người vậy, vì vậy lấy Trung Nguyên làm đầu. Tam Nguyên cùng Chi thần gặp gỡ, gặp chỗ cuối ắt khí số của Trời Đất cũng hết, trừ Tý Sửu là 2 chi thần nơi Trời Đất mở mang, không có người và vật, Tam Nguyên đến Dần, là nơi 9 cung gặp gỡ với Nguyên.

Thượng Thượng Nguyên Giáp Tý, Hoàng đạo chủ sự, gặp gỡ ở Dần, trong 15.000 năm, vận khí lặng vững, ngày dài đêm ngắn, người có lông sừng, sống lâu hơn 1.000 năm, chẳng ganh chẳng chia, người vật mộc mạc, đấy là người thời thái cổ.

Thượng Trung Nguyên Giáp Tý, Bạch đạo chủ sự, gặp gỡ ở Mão, trong 15.000 năm, vận khí lặng, Thiên đạo hành thụ, người cao hơn 1 trượng, sống 1.000 đến 600-700 năm, ở tổ ở hang, không ăn không mặc, đấy là người thời thượng cổ.

Thượng Hạ Nguyên Giáp Tý, Xích đạo chủ sự, gặp gỡ ở Thìn, trong 15.000 năm, vận khí động, nước lửa được dùng, người cao hơn 1 trượng, sống lâu 600 đến 300-400 năm , có mẹ không cha, của cải bắt đầu chia, đấy là người thời trung cổ.

Trung Thượng Nguyên Giáp Tý, Hoàng đạo chủ sự, gặp gỡ ở Tỵ, trong 15.000 năm, vận khí động, có tri thức, người cao 8-9 thước, sống lâu 130 năm , Đất bằng Trời thành, bắt đầu phân 5 giềng mối, đấy là người giữ gìn. (Vận này theo chu kỳ thì phải là Bạch đạo chủ sự, ngờ rằng sao chép nhầm chăng)

Trung Trung Nguyên Giáp Tý, Tử đạo chủ sự, gặp gỡ ở Ngọ, trong 15.000 năm, vận khí rất động, trăm vật đều đủ, người cao 5-6 thước, sống lâu 100 đến 70-80 năm, có danh có lợi, nảy ra trăm trò khéo léo, đấy là người bôn ba.

Trung Hạ Nguyên Giáp Tý, Bạch đạo chủ sự, gặp gỡ ở Mùi, trong 15.000 năm, vận khí loạn động, trăm vật kém thiếu, người cao 4-5 thước, sống lâu 50-60 năm, tham lam giận ghét mê muội quấn quýt, lễ nhạc bỏ mất, đấy là người chìm trong mê muội.

Hạ Thượng Nguyên Giáp Tý, Hắc đạo chủ sự, gặp gỡ ở Thân, trong 15.000 năm, vận khí chẳng ngay, thiên văn không pháp độ, người cao 3-4 thước, sống lâu 40-50 năm, trăm trò gian tham, đều chẳng có phép tắc kỷ cương, đấy là người gặp kiếp số.

Hạ Trung Nguyên Giáp Tý, Bích đạo chủ sự, gặp gỡ ở Dậu, trong 15.000 năm, vận khí loạn động, tinh đẩu chìm tan, người cao 3-4 thước, sống lâu 30-40 năm, ăn mặc trái khoáy, nóng lạnh không chừng, đấy là người có vóc dáng của quỷ.

Hạ Hạ Nguyên Giáp Tý, Lục đạo chủ sự, gặp gỡ ở Tuất, trong 15.000 năm, vận khí đến lúc tiêu diệt, mặt trời mặt trăng không ánh sáng, người cao 2-3 thước, sống lâu 20-30 năm, giống như một con chó, ra vào lo sợ, đen nhiều trắng ít, đấy là người như con sâu cái kiến.

Đến Hợi, ắt Tam Nguyên khí tuyệt, chỉ có dư khí của Chi thần vẫn liên lạc chẳng dứt. Đến Tý nhất khí sinh, âm dương định vị, trăng sao sinh ánh sáng, quay lại từ đầu, hai khí trùm khắp muôn tượng. Xoay vần đến Sửu, Tam Nguyên gặp chi thần, lại sinh Thánh nhân, cai quản giáo hóa thế giới, Thượng Thượng Nguyên Giáp Tý trở lại, Thiên khí xoay vần Mặt trời ba phần. Là lẽ xoay vòng của 15.000 năm, quay 1 vòng trở lại từ đầu, 500 là kiếp số của Tam Nguyên vận hội, 30 lần, đều là số của 360, đều là lý của âm dương.

 

2

 

伯溫曰:

不知數更變乎?

道人曰:

五百年乃三元定數,紫微臨辰,其中或三百年一變,此應群煞兆亂,國運人事之劫兆,三元正會之數也,而所主亂者,諸天凶星也.

Lưu Bá Ôn viết:

Bất tri số canh biến hồ?       

Đạo nhân viết:

Ngũ bách niên nãi Tam Nguyên định số, Tử Vi lâm thần, kỳ trung hoặc tam bách niên nhất biến, thử ứng quần sát triệu loạn, quốc vận nhân sự chi kiếp triệu, Tam Nguyên chính hội chi số dã, nhi sở chủ loạn giả, chư Thiên hung tinh dã.

Tạm dịch

Bá Ôn hỏi:

Chẳng biết số thay đổi thế nào?

Đạo nhân trả lời:

500 năm là định số của Tam Nguyên, sao Tử Vi đến chi thần, ở trong hoặc 300 một lần thay đổi, đấy là ứng với điềm bầy sát tinh làm rối ren, điềm kiếp nạn của vận nước việc người, số của chính hội Tam nguyên, vốn chủ về rối ren, đấy là sao dữ của chư Thiên.

 

3

 

伯溫曰:

今在何會之中,氣運如何?

道人曰:

按度數在午時下刻,中中元紫道之會,不久人事變遷,應第二十劫數,該紫微降臨,二十八宿降生,又有九曜星官掃除妖魔,開二百年一紀之數.

Phiên âm

Bá Ôn viết:

Kim tại hà hội chi trung, khí vận như hà?

Đạo nhân viết:

Án độ số tại Ngọ thời hạ khắc, Trung Trung Nguyên Tử đạo chi hội, bất cửu nhân sự biến thiên, ứng đệ nhị thập kiếp số, cai Tử Vi giáng lâm, Nhị Thập Bát Tú giáng sinh, hựu hữu Cửu Diệu Tinh Quan tảo trừ yêu ma, khai nhị bách niên nhất kỷ chi số.

Tạm dịch

Bá Ôn hỏi:

Bây giờ ở trong hội nào, khí vận ra sao?

Đạo nhân trả lời:

Theo độ số tại khắc sau của giờ Ngọ, là hội của Trung Trung Nguyên Tử Đạo, chẳng lâu nhân sự thay đổi, ứng với kiếp số thứ 20, nắm giữ việc sao Tử Vi giáng lâm, 28 Tú sinh xuống cõi người, lại có Cửu Diệu Tinh Quan quét dẹp yêu ma, mở ra số của 1 kỷ, 200 năm.

(Sao Tử Vi chủ quản chư sát, 36 Thiên Cương, 72 Địa Sát. Đây là chỉ Vua)

 

4

 

伯溫曰:

紫微降生何方?

道人曰:

赤地沖天,地鳴山崩,牛生兩尾,日月并行,木上挂曲尺,即真主也.吳地黃冠,霞光萬道,旌禅下界,收留扶養,先有五瘟使者應此劫數,傳播瘟疫,人人遭難,烏梅可解,亂世妖人抬起首,有兩丁運馬,火虎出世,黑猿領兵,金槍出現,木鍾自鳴,爾乃登州指行,不可同行,侯赤氣沖天,方可指行,石人二眼,二人二足,乃起兵之時也.

Phiên âm

Bá Ôn viết:

Tử Vi giáng sinh hà phương?

Đạo nhân viết:

Xích địa xung Thiên, địa minh sơn băng, Ngưu sinh Lưỡng Vĩ, Nhật Nguyệt tính hành, Mộc thượng quải Khúc Xích, tức chân chủ dã. Ngô địa Hoàng Quan, hà quang vạn đạo, tinh Thiền hạ giới, thu lưu phù dưỡng, tiên hữu Ngũ Ôn Sứ Giả ứng thử kiếp số, truyền bá ôn dịch, nhân nhân tao nạn, Ô Mai khả giải, loạn thế yêu nhân đài khởi thủ, hữu Lưỡng Đinh vận Mã, Hỏa Hổ xuất thế, Hắc Hầu lĩnh binh, kim thương xuất hiện, mộc chủng tự minh, nhĩ nãi Đăng Châu chỉ hành, bất khả đồng hành, hậu Xích khí xung Thiên, phương khả chỉ hành, Thạch nhân Nhị Nhãn, Nhị Nhân Nhị Túc, nãi khởi binh chi thời.

Tạm dịch

Bá Ôn hỏi:

Sao Tử Vi sinh xuống ở chốn nào?

Đạo nhân trả lời:

Đất Đỏ xông lên Trời, đất kêu núi lở, Trâu sinh Hai Đuôi, Mặt Trời Mặt Trăng cùng đi, trên Cây treo cái Thước Vuông, đấy là chân chủ, Mũ Vàng đất Ngô, ráng sáng muôn tia, cờ Thiền cõi dưới, thu giữ nuôi nấng, trước có Ngũ Ôn Sứ Giả ứng với kiếp số này, gieo rắc bệnh dịch, người người mắc nạn, vị thuốc Ô Mai có thể chữa được, yêu nhân quấy rối đời ngóc đầu dậy, có hai Đinh chở Ngựa, Hổ Lửa ra đời, Vượn Đen cầm quân, Thương Vàng hiện ra, Chuông Gỗ tự kêu, ngươi bèn đi đến Đăng Châu, chẳng thể cùng đi, lúc khí Đỏ xông lên Trời, có thể đi đến, Người Đá hai Mắt, Hai Người Hai Chân, là lúc dấy binh.

(Xích là màu Đỏ, phương Nam, cung Ly, đây là chỉ huyện Chung Ly鍾離, nay là huyện Phượng Dương, tỉnh An Huy, nơi Chu Nguyên Chương朱元璋cất tiếng khóc chào đời; màu Đỏ cũng là Chu .

Trâu sinh Hai Đuôi, chữ Ngưucó 2 nét phảy thành chữ Chu.

Chữ Nhậtchữ Nguyệthợp thành chữ Minh.

Chữ Mộctreo cái Thước Vuông là chữ Chu .

Chu Nguyên Chương từng xưng là Ngô Vương năm Giáp Thìn 1364.

Cờ Thiền là việc Chu Nguyên Chương làm sãi ở chùa Hoàng Giác皇覺. Năm Nguyên Chí Chính thứ 4, Nhâm Thân, 1344, tháng 4 cha mẹ và anh chết đói, tháng 9 Chu Nguyên Chương vào chùa. Đến Chí Chính năm thứ 12 thì theo bạn thân là Thang Hòa, đến Hào Châu tham gia quân Khăn Đỏ của Quách Tử Hưng. Hổ là Dần, Mã là Ngọ, Viên là Thân.

 

5

 

伯溫曰:紫微起兵元人始何

道人曰:元乃光明佛轉世也, 應善善而去, 有人追趕至黑水, 一河有角端且一統佛也. 太平三百載, 只有二百餘年, 萬子萬孫之年, 人口吐火, 鼻内生烟, 拳中走馬, 男川女衣, 女川男衣, 江山又一變矣.

Phiên âm

Bá Ôn viết:

Tử Vi khởi binh, Nguyên nhân thử hà?

Đạo nhân viết:

Nguyên nãi Quang Minh Phật chuyển thế dã, ứng Thiện Thiện nhi khứ, hữu nhân truy cản chí Hắc thủy, Nhất Hà hữu Giác Đoan, thả nhất thống hóa Phật dã. Thái bình tam bách tải, chỉ hữu nhị bách dư niên, Vạn tử Vạn tôn chi niên, nhân Khẩu Thổ Hỏa, Tỵ Nội Sinh Yên, Quyền Trung Tẩu Mã, Nam xuyên Nữ Y, Nữ xuyên Nam Y, giang sơn hựu nhất biến.

Tạm dịch

Bá Ôn hỏi:

Sao Tử Vi dấy binh, người Nguyên ra sao?

Đạo nhân trả lời:

Người Nguyên là Quang Minh Phật chuyển thế, ứng với điều lành, điều lành mà đi, có người đuổi bắt tới Hắc Thủy, một con Sông bên phải có Sừng Thẳng, vả lại nhất thống hóa thành Phật. Yên ổn 300 năm, chỉ có hơn 200 năm, đến năm Muôn con Muôn cháu, người trong Mồm nhả ra Lửa, Mũi thở ra Khói, trong Bàn Tay Ngựa chạy, đàn ông mặc áo đàn bà, đàn bà mặc áo đàn ông, non sông một lần thay đổi.

(Nhà Nguyên sụp đổ chạy về phương Bắc, Hắc Thủy là sông Hắc Long Giang.

Chữ Hồng  một nửa giống chữ Hà ở bộ Thủy bên trái, nửa phải chữ Cộng như có 2 sừng thò lên.

Chu Nguyên Chương là sãi 8 năm, nên nói hóa Phật. Nhà Minh kéo dài 276 năm, nên nói an bình hơn 200 năm, con cháu kéo dài ở miền nam kéo dài thêm vài năm.

“Vạn tử Vạn tôn” là chỉ Vạn Lịch và Sùng Trinh cháu của Vạn Lịch. Câu này giống trong Thiêu Bính ca.

Người Mãn hút thuốc, nên nói “trong Mồm nhả ra Lửa, Mũi thở ra Khói”, “trong Bàn Tay Ngựa chạy” là chỉ ống tay áo kiểu Mã Đề Tụ 馬蹄袖, chỗ này giống trong Tàng Đầu Thi.)

 

6

 

伯溫曰:

萬子萬孫何爲江山三百載也?

道人曰:

萬乃國号,帝之孫也,斯時群魔下界,劫賊爲害,萬物乘變,瘟疫流行,家家頭戴侍郎帽,戶戶手執槍刀棍,草寇紛擾,各據一方,先逢兩丁金克木,後是壬午火克金,

Phiên âm

Bá Ôn viết:

Vạn tử vạn tôn hà vi giang sơn tam bách tải dã?

Đạo nhân viết:

Vạn tử quốc hiệu, đế chi tôn dã, tư thời quần ma hạ giới, kiếp tặc vi hại, vạn vật thừa biến, ôn dịch lưu hành, gia gia đầu đái Thị Lang Mạo, hộ hộ thủ chấp thương đao côn, thảo khấu phân nhiễu, các cứ nhất phương, tiên phùng lưỡng Đinh Kim khắc Mộc, hậu thị Nhâm Ngọ Hỏa khắc Kim.

Tạm dịch

Bá Ôn hỏi:

Muôn con muôn cháu sao non sông chỉ được 300 năm

Đạo nhân trả lời:

Vạn là quốc hiệu, cháu của vua, lúc ấy quần ma xuống cõi người, giặc cướp làm hại, muôn vật theo đó đổi thay, dịch bệnh tràn lan, nhà nhà đội mũ kiểu mũ Thị Lang, người người tay cầm thương đao côn, giặc cỏ quấy rối, trước gặp Hai Đứa Kim khắc Mộc, sau là Nhâm Ngọ Hỏa khắc Kim.

(Nói về thời Sùng Trinh.

Mũ Thị Lang là loại mũ tròn hình nửa quả dưa, dân Mãn đội loại mũ này. Sau Tàu bị Mãn thôn tính, người Mãn bắt người Hán phải ăn mặc, tóc tai theo kiểu người Mãn.

Lưỡng Đinh là 2 chữ Đinh, chỉ Lý Tự Thành李自成 , chữ Lý và chữ Thành đều có chữ Đinh, là người Thiểm Tây thuộc Kim, Mộc là theo họ Chu nhà Minh, chữ Chu có chữ Mộc.

Năm Nhâm Ngọ 1642, quân Minh thua quân Thanh.)

 

7

 

伯溫曰:應何地何兆?

道人曰:

東方星象映天弓

遍地天澤起妖風

天下人民死如阜

白氣沖破天狗凶

白虎天子不非凡

煞星下界三十年

八牛曳糧無氣力

餓死人民有萬千

口中口,莫良斗

一萬子孫遍地走

黃虎出世滿江紅

白蛇尸骨喂餓狗

甲申之年盡災侵

木子登傳不知魂

兩眼只做觀日月

日月無光昏星斗

Phiên âm

Bá Ôn viết:

Ứng hà địa, hà triệu?

Đạo nhân viết:

Đông phương tinh tượng ánh Thiên cung

Biến địa Thiên trạch khởi yêu phong

Thiên hạ nhân dân tử như phụ

Bạch khí xung phá Thiên Cẩu hung

Bạch Hổ thiên tử bất phi phàm

Sát Tinh hạ giới tam thập niên

Bát Ngưu duệ lương vô khí lực

Ngạ tử nhân dân hữu vạn thiên

Khẩu trung Khẩu, mạc năng đấu

Nhất Vạn tử tôn biến địa tẩu

Hoàng Hổ xuất thế mãn giang hồng

Bạch Xà thi cốt uy ngạ cẩu

Giáp Thân chi niên tận tai xâm

Mộc Tử đăng truyền bất tri hồn

Lưỡng Nhãn chỉ tố quan Nhật Nguyệt

Nhật Nguyệt vô quang hôn tinh đẩu.

Tạm dịch

Bá Ôn hỏi:

Ứng ở đất nào, điềm ra sao?

Đạo nhân trả lời:

Tinh tượng phương Đông ánh lên cây cung của Trời

Ơn Trời khắp chốn nổi yêu ma

Cõi đời người chết chất thành đống

Khí Trắng xung phá Thiên Cẩu dữ

Hổ Trắng vua chúa chẳng giỏi gì

Sao Ác xuống cõi người 30 năm

Tám Trâu thiếu đói chẳng còn sức

Người chết đói muôn vàn

Mồm trong Mồm, chẳng giỏi đánh nhau

Một Muôn con cháu chạy khắp nơi

Hổ Vàng ra đời đầy sông màu hồng

Bạch Xà xác chết nuôi chó đói

Năm Giáp Thân tất cả đều mắc vạ

Con Cây lên truyền chẳng biết bóng

Hai mắt chỉ xem Mặt Trời Mặt Trăng

Mặt Trời Mặt Trăng không ánh sáng, Sao tối tăm.

(Chỉ nhà Minh lúc mạt vận, dịch bệnh, thiên tai, mất mùa đói kém, giặc cướp nổi lên như nấm. Phía Đông người Nhật vào cướp phá, phía Bắc người Mãn.

Bát Ngưu八牛 là chữ Chu .

“Khẩu trung Khẩu” có người cho là chữ Do, con cháu Vạn Lịch lấy tên đệm là Do.

Hoàng Hổ là Mậu Dần 1638, Bạch Xà là Tân Tỵ 1641, Giáp Thân là 1644. Mộc Tử木子 là Lý, Lý Tự Thành lên ngôi. “Nhật Nguyệt vô quang” là nhà Minh sụp đổ.)

 

8

 

伯溫曰:

帝将如何下落?

道人曰:

馬嵬坡下血淋淋

大風吹過五花門

大哭一聲天色變

八牛曳倒大都鍾

赤足散發歸梅山

屍骨遍野入山林

Phiên âm

Bá Ôn viết:

Đế tương như hà hạ lạc?

Đạo nhân viết:

Mã Ngôi Pha hạ huyết lâm lâm

Đại phong xuy quá Ngũ Hoa môn

Đại khốc nhất thanh Thiên sắc biến

Bát Ngưu duệ đảo đại đô chung

Xích túc tán phát quy Mai sơn

Thi cốt biến dã nhập sơn lâm.

Tạm dịch

Bá Ôn hỏi:

Vua sẽ mất ngôi ra làm sao?

Đạo nhân trả lời:

Dưới Mã Ngôi Pha máu đầm đìa

Gió to thổi khắp chốn

Khóc to một tiếng Trời đổi sắc

Tám Trâu yếu sức ngã lăn ở kinh đô

Chân trần xõa tóc chạy lên núi Mai

Xác chết khắp ruộng đồng đến núi rừng.

(Mã Ngôi Pha là nơi Đường Huyền Tông dưới sức ép của lính tráng, buộc phải bắt Dương Thái Chân thắt cổ chết. Khi quân Sấm Vương đánh vào cung, Sùng Trinh cũng bắt hậu cung tự tử, ai không nghe thì giết chết.

Chữ Mai đồng âm Môi, Sùng Trinh treo cổ ở Môi Sơn, tức là Cảnh Sơn. Ngọn núi đắp lên làm Hậu Đầu cho Cố cung.)

 

9

 

伯溫曰:

此人在位幾年?

道人曰:

日月垂落李樹頭

十八孩兒坐幽州

開門一馬入金殿

拍手哈哈三春秋

有一裹腳鬼

天門頭上一個嘴

勾引北方百萬兵

掃滅群鬼生後悔

遍地開紅花

絕是哭聲里

太平人兩個

但等果子來

Phiên âm

Bá Ôn viết:

Thử nhân tại vị kỷ niên?

Đạo nhân viết:

Nhật Nguyệt thùy lạc Lý thụ đầu

Thập Bát Hài Nhi tọa U Châu

Khai Môn nhất Mã nhập kim điện

Phách thủ cáp cáp tam xuân thu

Hữu nhất khỏa cước quỷ

Thiên môn đầu thượng nhất cá Chủy

Câu dẫn Bắc phương bách vạn binh

Tảo diệt quần quỷ sinh hậu hối

Biến địa khai Hồng Hoa

Tuyệt thị khốc thanh lý

Thái bình nhân lưỡng cá

Đãn đẳng quả tử lai

Tạm dịch

Bá Ôn hỏi:

Người ấy ở ngôi bao nhiêu năm?

Đạo nhân trả lời:

Mặt Trời Mặt Trăng lặn trên ngọn cây Mận

Mười Tám Đứa Trẻ ngồi ở U Châu

Mở cửa một Ngựa vào kim điện

Vỗ tay đôm đốp 3 Xuân Thu

Có một thứ ngăn bước chân quỷ

Cửa Trời trên đầu có một Miệng

Dẫn trăm muôn lính phía Bắc

Quét sạch bọn quỷ để lại ăn năn về sau

Khắp chốn Hoa Hồng nở

Im bặt mọi tiếng khóc

Thái bình có hai người

Chỉ bọn Trái Cây đến.

(Nhật Nguyệt là Minh, Lý là Lý Tự Thành.

Thập Bát Hài Nhi cũng như Thập Bát Tử十八子tức là chữ Lý.

Ba Xuân Thu, Lý Tự Thành xưng là Tân Thuận Vương năm Quý Mùi-1643, đến lúc chết năm Ất Dậu-1645, cộng được 3 năm.

Chữ Chủy cũng như chữ Khẩu, trên chữ Thiên có chữ Khẩu là chữ Ngô, tức là Ngô Tam Quế, người dẫn quân Thanh vào Bắc Kinh.

Hoa Hồng là chỉ mũ kiểu Hoa Linh花翎, kiểu mũ vua quan nhà Thanh dùng.

Thái bình hai đời vua Khang Hy-Càn Long.

Chữ Tửcòn đọc là Tý, năm Tý 1912 nhà Thanh sụp đổ. Câu này có thể dịch là “quả là chỉ đến năm Tý”.)

 

10

 

伯溫曰:

帝歷時幾代?

道人曰:

争争争,休休休

二人挂命在樹頭

琵琶立在中華地

巍巍富貴在洪洲

人間古月消磨事

天地昏暗鬼神愁

三十六年等八字

紅日落在天盡頭

天無雨澤百苗死

死不滋生井泉干

梨花受饑寒

十郡九無烟

猛虎沿街走

再無太平年

Phiên âm

Bá Ôn viết:

Đế lịch thời kỷ đại?

Đạo nhân viết:

Tranh tranh tranh, hưu hưu hưu

Nhị Nhân quải mệnh tại Thụ Đầu

Tỳ Bà lập tại Trung Hoa địa

Nguy nguy phú quý tại Hồng Châu

Nhân gian Cổ Nguyệt tiêu ma sự

Thiên Địa hôn ám Quỷ Thần sầu

Tam Thập Lục niên đẳng Bát Tự

Hồng Nhật lạc tại Thiên tận đầu

Thiên vô Vũ Trạch bách miêu tử

Tử bất tư sinh tỉnh tuyền can

Lê hoa thụ cơ hàn

Thập quận cửu vô yên

Mãnh Hổ duyên nhai tẩu

Tái vô thái bình niên.

Tạm dịch

Bá Ôn hỏi:

Vua trải qua được bao nhiêu đời?

Đạo nhân trả lời:

Giành giật, giành giật, giành giật, nghỉ ngơi, nghỉ ngơi, nghỉ ngơi

Hai Người treo mệnh ở Ngọn Cây

Đàn Tỳ Bà đứng ở đất Trung Hoa

Vòi vọi giàu sang ở Hồng Châu

Cõi người Trăng Cũ việc mất hết

Trời Đất tối tăm Quỷ Thần buồn

Ba Mươi Sáu năm cùng Tám Chữ

Mặt Trời Hồng lặn ở cuối Trời

Trời không Mưa Nhuần trăm loài cỏ chết

Chết rồi chẳng sống giếng suối khô

Hoa Lê gặp đói rét

Mười quận chín quận không có khói

Hổ khỏe đi ven đường

Lại không phải là năm yê vui.

(Sau khi nhà Thanh sụp đổ, nước Tàu đại loạn, các thế lực giành giật nhau, tiếp theo Nhật xâm lược.

Hai phe Tôn Trung Sơn và Viên Thế Khải tranh nhau làm thủ lĩnh.

Chữ Tỳ Bà  có 4 chữ Vương  chỉ tình trạng quân phiệt cát cứ. Giàu sang cũng chỉ như trứng để đầu đẳng mà thôi.

Cổ Nguyệt古月là Hồ , chỉ nhà Mãn Thanh đã sụp đổ hẳn năm 1945.

Trung Hoa Dân Quốc năm thứ 36-1947 bắt đầu có Hiến Pháp, năm 38 chạy ra Đài Loan.

Vũ Trạch雨澤, Vũđồng âm Vũ, giống Mao , chỉ Mao Trạch Đông.

Mười quận chín quận không có khói: đói, không có gì để nấu ăn nên không đun bếp.)

 

11

 

伯溫曰:

先是何人作亂?

道人曰:

紫微臨照,先有力士将煞星,興兵散落八方,貪官污吏逼亂世道.

諸神群煞起干戈

社稷山河盡是鬼

鬼頭蛇尾不定日

猴去雞來如臺索

中下甲子看看到

天開一口任蹉跎

人人争趕幽州地

所生一二土木哥

Phiên âm

Bá Ôn viết:

Tiên thị hà nhân tác loạn?

Đạo nhân viết:

Tử Vi chiếu lâm, tiên hữu lực sỹ tương sát tinh, hung binh tán lạc bát phương, tham quan ô lại loạn thế đạo.

Chư Thần quần Sát khởi can qua

Xã tắc sơn hà tận thị quỷ

Quỷ đầu Xà vĩ bất định nhật

Hầu khứ Kê lai như đài sách

Trung Hạ Giáp Tý khán khán đáo

Thiên khai Nhất Khẩu nhiệm sa đà

Nhân nhân tranh cản U Châu địa

Sở sinh Nhất Nhị Thổ Mộc ca.

Tạm dịch

Bá Ôn hỏi:

Ai là người gây rối lúc đầu?

Đạo nhân trả lời:

Sao Tử Vi rọi đến, trước có lực sỹ cùng sát tinh, dấy binh tung ra tám hướng, tham quan ô lại o ép nên sinh ra rối ren.

Chư Thần quần Sát dấy can qua

Xã Tắc sơn hà hết thảy là quỷ

Đầu Quỷ đuôi Rắn chưa định ngày

Khỉ qua Gà tới lẻ loi như đài cao

Nhìn thấy Trung Hạ Nguyên Giáp Tý đến

Trời mở một Mồm làm lỡ bước

Người người giành giật đất U Châu

Vốn sinh ra Một Hai anh Đất Cây.

(Thiên khai Nhất Khẩu 天開一口 là chữ Ngô)

 

12

 

伯溫曰:

弟子在孟津河邊見水漂出一碑,上刻詩句云:“黃鼠炬天亂,口上口,天上天,時干戈起,人民死萬千此應在何時?

道人曰:

乾坤有人在火裏

二人五代水清時

三人同眠将手指,

不指東,不指西,

一指秦人個個啼

Phiên âm

Bá Ôn viết:

Đệ tử ở bên sông Mạnh Tân, kiến thủy phiêu xuất nhất bi, thượng khắc thi cú vân: “Hoàng Thử cự Thiên loạn, Khẩu thượng Khẩu, Thiên thượng Thiên, nhất thời can qua khởi, nhân dân tử vạn thiên.” Thử ứng tại hà thời?

Đạo nhân viết:

Càn Khôn hữu nhân tại hà lý

Nhị Nhân Ngũ Đại thủy Thanh thời

Tam Nhân đồng miên tương Thủ chỉ

Bất chỉ Đông, bất chỉ Tây

Nhất chỉ Tần nhân cá cá đề.

Tạm dịch

Bá Ôn hỏi:

Học trò ở ven sông Mạnh Tân, thấy trong nước lập lờ tấm bia, trên khắc mấy câu thơ như sau: “Chuột Vàng đuốc Trời rối ren, Mồm trên Mồm, Trời trên Trời, một lúc chiến tranh nỏi lên, nhân dân chết muôn vàn.” Đấy là ứng với lúc nào?

Đạo nhân trả lời:

Càn Khôn có người ở trong Lửa

Hai người Năm đời lúc nước Trong

Ba Người cùng ngủ lấy Tay chỉ

Chẳng chỉ Đông, chẳng chỉ Tây

Một chỉ người Tần người người kêu.

(Hoàng Thử là Chuột Vàng, năm Canh Tý-1900 nạp âm thuộc Thổ, khởi nghĩa Nghĩa Hòa Đoàn, liên quân 8 nước đánh phá Bắc Kinh. Khẩu thượng Khẩu口上口là chữ Hy , chỉ Từ Hy慈禧; Thiên thượng Thiên, trên vua lại còn có thái hậu nhiếp chính.

Nhị nhân Ngũ đại, nhà Thanh từ khi chiếm nước Tàu kéo dài 10 đời vua.

Ba Người cùng ngủ lấy Tay chỉ, thời Đồng Trị, Quang Tự, 1 vua 2 thái hậu nhiếp chính.

Nhất chỉ Tần, là nhà Thanh năm 1900 chạy vào Tây An.)

 

13

 

伯溫曰:

秦人遭此劫難幾年幾載?

道人曰

一二水起火當先

黃金燒在火里邊                                        

坤地起首楚地亂

秦地人民死萬千

一人頭上生火草

整頓軍馬入秦川

頭上開口不說討

口裏還有一火天

處處烟塵無定局

送還璽寶到長安

Phiên âm

Bá Ôn viết:

Tần nhân tao thử kiếp nạn kỷ niên kỷ tải?

Đạo nhân viết:

Nhất Nhị Thủy khởi Hỏa đương tiên

Hoàng kim thiêu tại Hỏa lý biên

Khôn địa khởi thủ Sở địa loạn

Tần địa nhân dân tử vạn thiên

Nhất nhân đầu thượng sinh Hỏa Thảo

Chỉnh đốn binh Mã nhập Tần Xuyên

Đầu thượng khai Khẩu bất thuyết thảo

Khẩu lý hoàn hữu Nhất Hỏa Thiên

Xứ xứ yên trần vô định cục

Tống hoàn Tỷ Bảo đáo Tràng An.

Tạm dịch

Bá Ôn hỏi:

Người Tần gặp kiếp nạn bao nhiêu năm?

Đạo nhân trả lời:

Một Hai Nước dấy lên Lửa đang ở trước

Vàng bị đốt ở bên cạnh Lửa

Đất phương Khôn ngóc đầu lên đất Sở rối ren

Đất Tần dân chúng chết muôn vàn

Một người trên đầu sinh Cỏ Lửa

Chỉnh đốn quân mã vào Tần Xuyên

Trên đầu mở Miệng chẳng nói năng

Trong Mồm vẫn có một Trời Lửa

Chốn chốn khói bụi cục thế không định

Tỷ ấn của vua đưa về đến Tràng An.

(Nhất Nhị Thủy, chỉ Hồng Tú Toàn, Lê Nguyê Hồng, chữ Hồng là nước lũ.

Sự kiện Từ Hy cùng Đạo Quang chạy vào Tây An)

 

14

 

伯溫曰:

煞星起落俱應在何年?

道人曰:

天開一口是冤仇

引動八牛破幽州

燕趙衛地人民苦

二八春秋此時休

火龍飛來楚地亂

火蛇出來是根由

黃馬到處遭荒亂

土羊爲害天地愁

這此離亂最可怕

山西猿猴破口言

虎人騎白馬

紅人煉黃牛

猿在後,猴在前

水火既濟四十年

古月還照中華地

星移斗轉錯天盤

猴在後,猿在前

水火既濟兔月圓

胡人換星斗

口上口,天上天.

Phiên âm

Bá Ôn viết:

Sát Tinh khởi lạc câu ứng tại hà niên?

Đạo nhân viết:

Thiên sinh nhất Khẩu thị oan cừu

Dẫn động Bát Ngưu phá U Châu

Yên, Triệu, Vệ địa nhân dân khổ

Nhị Bát Xuân Thu kỷ thời hưu

Hỏa Long phi lai Sở Địa loạn

Hỏa Xà xuất lai thị căn do

Hoàng Mã đáo xứ tao hoang loạn

Thổ Dương vi hại Thiên Địa sầu

Giá thử ly loạn tối khả phạ

Sơn Tây Viên Hầu phá khẩu ngôn

Hổ nhân kỵ Bạch Mã

Hồng nhân luyện Hoàng Ngưu

Viên tại hậu, Hầu tại tiền

Thủy Hỏa ký tế tứ thập niên

Cổ Nguyệt hoàn chiếu Trung Hoa địa

Tinh di Đẩu chuyển thác Thiên bàn

Hầu tại hậu, Viên tại tiền

Thủy Hỏa ký tế Thố Nguyệt viên

Hồ nhân hoán Tinh Đẩu

Khẩu thượng Khẩu, Thiên thượng Thiên.

Tạm dịch

Bá Ôn hỏi:

Sát Tinh mọc lặn đều ứng ở năm nào?

Đạo nhân trả lời:

Trời mở một Miệng là oan cừu

Dẫn động Tám Trâu phá U Châu

Đất Yên, Triệu, Vệ nhân dân khó khăn

Hai Tám Xuân Thu lúc nào thôi

Rồng Lửa bay đến đất Sở rối ren

Rắn Lửa lại ra là gốc rễ

Ngựa Vàng đến chỗ gặp đói kém rối ren

Dê Đất làm hại Trời Đất rầu rĩ

Lúc ấy chia lìa rối ren rất đáng sợ

Sơn Tây Vượn Khỉ mở mồm nói

Người Hổ cưỡi Ngựa Trắng

Người Hồng luyện Trâu Vàng

Vượn ở sau, Khỉ ở trước

Nước Lửa giúp nhau Bốn Mươi năm

Trăng Cũ trở lại soi sáng đất Trung Hoa

Sao dời Đẩu đổi sai Thiên bàn

Khỉ ở sau, Vượn ở trước

Nước Lửa giúp nhau Trăng Thỏ tròn

Người Hồ đổi Tinh Đẩu

Mồm trên Mồm, Trời trên Trời.

(Thiên khai nhất Khẩu, chỉ Ngô Tam Quế, cũng chỉ đất Ngô.

Nhị Bát Xuân Thu là 280 năm.

Hỏa Long là Bính Thìn-1916, Hỏa Xà Đinh Tỵ-1917, Hoàng Mã Mậu Ngọ-1918, Thổ Dương Kỷ Mùi-1919.

Viên là Viên Thế Khải袁世凱. Hầu là Khỉ, Tôn cũng là Khỉ, chỉ Tôn Trung Sơn孫中山.

“Cổ Nguyệt hoàn chiếu”, là Phổ Nghi sau khi thoái vị còn nhiều lần trở lại làm vua cho đến khi bị bắt năm 1945.)

 

15

 

伯溫曰:

秦人復興,漢又如何?

道人曰:

元殺漢,留一半

八牛奔,子孫竄

至此只有三人,改姓殺入外夷,三百年,子孫入中華,亂元天下.

Phiên âm

Bá Ôn viết:

Tần nhân phục hưng, Hán hựu như nhà?

Đạo nhân viết:

Nguyên sát Hán, lưu nhất bán

Bát Ngưu bôn, tử tôn thoán

Chí thử chỉ hữu tam nhân, sát nhập ngoại di, tam bách niên, tử tôn nhập Trung Hoa, loạn Nguyên thiên hạ.

Tạm dịch

Bá Ôn hỏi:

Người Tần về sau dấy lên, người Hán sẽ ra sao?

Đạo nhân trả lời:

Người Nguyên giết người Hán, giữ lại một nửa

Tám Trâu chạy, con cháu trốn

Đến đấy chỉ có 3 người, đổi thành họ khác, cố sang nước ngoài, 300 năm sau, con cháu trở về nước Tàu, quấy rối nhà Nguyên.

(Đây là nói về việc Mãn Thanh xâm lược Tàu. Nhà Minh sụp đổ, con cháu Chu Nguyên Chương chạy ra nước ngoài. Có thuyết trong dân Tàu, Chu Nguyên Chương là người Hồi.)

 

16

 

伯溫曰:

似此何以了結?

道人曰:

若說了,還未了

一人白馬獻白寶

南人北,北人南

兩個人頭生一草

換斗又移星

天下難太平

前後一頭算

中間五百年

Phiên âm

Bá Ôn viết:

Tự thử hà dĩ liễu kết?

Đạo nhân viết:

Nhược thuyết liễu, hoàn vị liễu

Nhất Nhân Bạch Mã hiến Bạch Bảo

Nam nhân Bắc, Bắc nhân Nam

Lưỡng cá Nhân Đầu sinh Nhất Thảo

Hoán Đẩu hựu di Tinh

Thiên hạ nan thái bình

Tiền hậu nhất đầu toán

Trung gian ngũ bách niên.

Tạm dịch

Bá Ôn hỏi:

Tiếp theo đấy làm sao để xong việc

Đạo nhân trả lời:

Nếu nói xong, trở lại chưa xong

Một Người Ngựa Trắng dâng Báu Trắng

Người Nam ở Bắc, Người Bắc ở Nam

Hai Người Đầu sinh Cỏ

Đổi Đẩu lại dời Sao

Dưới gầm trời khó mà yên vui

Trước sau tính toán một đầu

Trong khoảng 500 năm.

(Bạch Mã có thể là Canh Ngọ 1930. Chưa rõ việc gì.)

 

17

 

伯溫曰:

此又是何人起落?

道人曰:

若問起事何年何地

戊戌初地風已酉

煞星猛虎下秦州

六僧分卦動

但看月中圓

扁里扁,圓里圓

兩個鹦鹉一處眠

去了口上口

還有天上天

天師同人才出現

天地戊申八方難

人人遭此劫

個個染黃泉

欲免刀兵厄

去向海底眠

動動海底虎

騰雲上九天

人能解此語

便做大羅仙

兩睛愆奇,怪異多端,死尸遍野,白骨如山,奔走天地,怨氣沖天,人畜遭殃,戶戶何安,九女一夫,無日安然.

金雞叫鳴天下亂

黑狗東方血水流

烏豬後是糟糠食

殺的人馬血染河

甲子年中日月現

八水悠悠迢五湖

Phiên âm

Bá Ôn viết:

Thử hựu thị hà nhân khởi lạc?

Đạo nhân viết:

Nhược vấn khởi sự hà nhân hà địa

Mậu Tuất sơ địa phong Kỷ Dậu

Sát Tinh mãnh hổ hạ Tần Châu

Lục Tăng phân quái động

Đãn khán Nguyệt trung Viên

Biển lý biển, Viên lý Viên

Lưỡng cá Anh Vũ nhất xứ miên

Khứ liễu Khẩu thượng Khẩu

Hoàn hữu Thiên thượng Thiên

Thiên sư đồng nhân tài xuất hiện

Thiên Địa Mậu Thân bát phương nạn

Nhân nhân tao thử kiếp

Cá cá nhiễm hoàng tuyền

Dục miễn đao binh ách

Khứ hướng hải để miên

Động động hải để Hổ

Đằng vân thượng Cửu Thiên

Nhân năng giải thử ngữ

Tiện tố Đại La Tiên

Lưỡng Tinh khiên kỳ, quái dị đa đoan, tử thi biến dã, bạch cốt như sơn, bôn tẩu Thiên Địa, oán khí xung Thiên, nhân súc tao ương, hộ hộ hà an, cửu nữ nhất phu, vô nhật an nhiên.

Kim Kê khiếu minh thiên hạ loạn

Hắc Cẩu đông phương huyết thủy lưu

Ô Chư hậu thị tao khang thực

Sát đích nhân mã huyết nhiễm hà

Giáp Tý niên trung Nhật Nguyệt hiện

Bát Thủy du du điều Ngũ Hồ

Tạm dịch

Bá Ôn hỏi:

Lúc bấy giờ ai lên ai xuống?

Đạo nhân trả lời:

Muốn hỏi việc bắt đầu năm nào chỗ nào

Năm Mậu Tuất chỗ bắt đầu, gió Kỷ Dậu

Sát Tinh Hổ mạnh xuống Tần Châu

Sáu vị Sãi chia Quẻ động

Chỉ thấy Trăng bên trong Tròn

Dẹt là dẹt, Tròn là Tròn

Hai con chim Anh Vũ ngủ một chỗ

Loại bỏ xong Mồm trên Mồm

Vẫn còn Trời trên Trời

Thày Trời cùng người tài ra đời

Trời Đất Mậu Thân tám hướng có nạn

Người người gặp kiếp nạn này

Cái cái nhuốm suối vàng

Muốn khỏi nạn binh đao

Đi về phía đáy biển ngủ

Lay động Hổ đáy biển

Cưỡi mây bay lên chín tầng Trời

Ai có thể biết được ý nghĩa của lời nói này

Trở thành bậc Đại La Tiên

Hai Con Ngươi lỗi lầm lạ, lạ lùng lắm đầu mối, xác chết đầy đồng, xương trắng như núi, chạy vạy Trời Đất, con người súc vật bị vạ, nhà nhà nào có yên lành, chín cô con gái một chồng, không ngày nào yên ổn.

Gà Vàng gáy rộn thiên hạ rối ren

Chó Đen phía Đông máu chảy như nước trôi

Sau Lợn Đen là ăn trấu bổi

Người ngựa bị giết máu nhuốm sông

Trong năm Giáp Tý Mặt Trời Mặt Trăng hiện ra

Tám dòng Nước chảy dài dằng dặc đến Ngũ hồ.

(Chính biến Mậu Tuất.

Hai con chim Anh Vũ chỉ Từ Hy, Quang Tự. Từ Hy chết nhưng Phổ Nghi còn bé nên vẫn chế độ nhiếp chính, nên nói “Thiên thượng Thiên”.

Hải Để chỉ Mỹ, so với Tàu thì là phía Đáy Biển.

Mỹ không tham chiến, sau vụ Trân Châu cảng, Mỹ tham chiến, nên nói “Lay động Hổ đáy biển”, thì chỉ có “đi chầu Trời” nên nói “Cưỡi mây bay lên chín tầng Trời”)

 

18

 

伯溫曰:

長安運氣如何?

道人曰:

北方黑煞,掃去群鬼

不多一年周甲子

靜里忽然動干戈

中中甲子百年盡

一元再現照大羅

有個口上口,天上天

代代兒孫亂江山

到了虎頭歲

無有豐收年

大旱三年,大澇三年

三年黎民遭塗炭

府縣貪官到處有

諸煞各據一方

殺得血流漂杵,白骨如山

真主出現

人人歸順,涇渭兩岸

Phiên âm

Bá Ôn viết:

Trường An vận khí như hà?

Đạo nhân viết:

Bắc phương Hắc Sát, Tảo khứ Quần Ma

Bất đa Nhất niên Chu Giáp Tý

Tĩnh lý hốt nhiên động can qua

 

Tạm dịch

Bá Ôn hỏi:

Khí vận của Trường An ra sao?

Đạo nhân trả lời:

Hắc Sát ở phương Bắc, quét dẹp quần ma

Chẳng nhiều Một Năm Một Vòng Giáp Tý

Đang yên bỗng nhiên nổi can qua

Trung Trung Giáp Tý hết một trăm năm

Lại thấy một Nguyên rọi lưới rộng

Có cái Mồm trên Mồm, Trời trên Trời

Đời đời con cháu quấy rối non sông

Đến năm đầu con Hổ

Năm không có được mùa

Ba năm hạn to, ba năm lụt to

Ba năm dân đen bị lầm than

Các phủ các huyện quan tham đâu cũng có

Chư Sát chiếm cứ các nơi

Giết chóc máu chảy trôi chày, xương trắng như núi

Chân chúa xuất hiện

Người người theo về, hai bờ sông Kinh sông Vị.

(Hắc Sát là chỉ Mãn Thanh.

Khang Hy thì Một vòng Giáp Tý thêm một năm, Càn Long thì vừa tròn.

Hết Trung Trung Nguyên Giáp Tý chuyển sang Trung Hạ Nguyên Giáp Tý, chiến tranh nổi lên, “Khẩu thượng Khẩu, Thiên thượng Thiên” là chỉ Từ Hy.

“Chư sát các cứ nhất phương” là thời kỳ Dân Quốc Quân Phiệt.

“Chân chủ” là vua người Hán; chia 2 bờ là Đại Lục và Đài Loan; sông Kinh sông Vị là nói bên trong bên đục, bên tốt bên xấu.)

 

19

 

伯溫曰:

至此何人應位?

道人曰:

烟塵攘攘唯生愁

六十年光一旦休

諸方共扶真命主

紫羅照在地上頭

二十八宿來羽翼

九曜星君獻智謀

八牛縱有千斤力

不免還元三百秋

Phiên âm

Bá Ôn viết:

Chí thử hà nhân ứng vị?

Đạo nhân viết:

Yên trần nhương nhương dụy sinh sầu

Lục thập niên gian nhất đán hưu

Chư phương cộng phù chân mệnh chủ

Tử La chiếu tại địa thượng đầu

Nhị thập bát Tú lai vũ dực

Cửu diệu Tinh Quân hiến trí mưu

Bát Ngưu túng hữu thiên cân lực

Bất miễn hoàn Nguyên tam bách Thu.

Tạm dịch

Bá Ôn hỏi:

Đến đấy ai là người ứng ngôi?

Đạo nhân trả lời:

Khói bụi mù mịt chỉ buồn rầu

Sáng sủa sáu mươi năm một buổi sáng ngừng

Các nơi cùng giúp người chủ có chân mệnh

Lụa Tía soi tại đầu trên mặt đất

Hai mươi tám Tú làm lông cánh

Cửu Diệu Tinh Quân dâng mẹo khôn

Tám Trâu ví có sức ngàn cân

Chẳng tránh khỏi về Nguyên ba trăm năm.

(Chỉ Mãn Thanh thống trị nước Tàu gần 300 năm.)

 

20

 

伯溫曰:

紫微降在何方?

道人曰:

大都世亂已久,只在龍蛇盤里尋.孟家生,趙家居,牛欄門前問真主.寅卯起,辰巳行,不在陰陽不在合.混亂乾坤木虎身,上生一果,只見東方象水紅,人人躲八難,八難鬼神愁,強橫當道,擾亂江山.

Phiên âm

Bá Ôn viết:

Tử Vi giáng tại hà phương?

Đạo nhân viết:

Đại đô thế loạn dĩ cửu, chỉ tại Long Xà bàn lý tầm. Mạnh gia sinh, Triệu gia cư, Ngưu lan môn tiền vấn chân chủ. Dần Mão khởi, Thìn Tỵ hành, bất tại Âm Dương bất tại hợp. Hỗn loạn Càn Khôn Mộc Hổ thân, thượng sinh nhất quả, chỉ kiến Đông phương tượng Thủy Hồng, nhân nhân đóa bát nạn, bát nạn Quỷ Thần sầu, cưỡng hoành đương đạo, nhiễu loạn giang sơn.

Tạm dịch

Bá Ôn hỏi:

Sao Tử Vi xuống trần ở phương nào?

Đạo nhân trả lời:

Kinh đô rối ren đã lâu, chỉ tìm trên bàn ở Rồng Rắn. Sinh ra ở nhà họ Mạnh, sống ở nhà họ Triệu, trước cửa chuồng Trâu hỏi chân chúa. Dần Mão bắt đầu, Thìn Tỵ làm, chẳng ở Âm Dương chẳng ở hợp. Rối rắm Càn Khôn thân Hổ Gỗ, trên nở một trái, chỉ thấy phía Đông nước màu Hồng, người người tránh né tám nạn, tám nạn Quỷ Thần buồn, ngang ngược chặn đường, quấy rối non sông.

(“Long Xà bàn” tức là hướng Thìn Tỵ-Đông Nam trên la bàn.

“Cửa chuồng Trâu” Chu Nguyên Chương đi chăn trâu thuê. Chuyện rằng, Chu Nguyên Chương rủ bạn chăn trâu giết trâu ăn, có gì Chu chịu.  Chu Nguyên Chương lấy đuôi trâu cắm vào kẽ núi. Khi chủ thấy mất trâu, Chu bảo trâu chui vào kẽ núi, lôi không ra. Chu dẫn chủ ra xem, quả thấy đuôi trâu thò ra ở khe núi. Chủ trâu bảo Chu Nguyên Chương lôi, Chu Nguyên Chương chở vờ lôi không được, chủ trâu cầm đuôi trâu giật mạnh, cái đuôi tụt ra. Chu Nguyên Chương kêu ầm lên, đứt đuôi thế là mất trâu rồi. Chủ trâu không sao được bèn đuổi việc Chu Nguyên Chương.)

 

21

 

伯溫曰:

又有誰人振興?

道人曰:

明滅元時元滅明

殺戮又被三子更

二千同人休作走

一二木人将子生

殺星下界亂天盤.陰雨連月,晝夜不眠,有苗無子,父北子南,人人起首,個個争先,奇奇怪怪,生育各所,皆四海之距.蓬萊山,四望山,牛頭山,瓜浮山,突子山,浮游山,七山生出各樣異物,助将興兵,争奪漢位一統.李子傳一十二帝,太平大襌,相傳樂業.四代之後,群煞入會,擾亂天下,争奪分裂,恐作一十二國也.子其志之勿忽.

Phiên âm

Bá Ôn viết:

Hựu hữu thùy nhân chấn hưng?

Đạo nhân viết:

Minh diệt Nguyên thời Nguyên diệt Minh

Sát lục hựu bị tam Tý canh

Nhị Thiên đồng Nhân hưu tác Tẩu

Nhất nhị Mộc Nhân tương Tử sinh

Sát tinh hạ giới loạn Thiên bàn. Âm vũ liên nguyệt, trú dạ bất miên, hữu Miêu vô tử, phụ Bắc tử Nam, nhân nhân khởi thủ, cá cá tranh tiên, kỳ kỳ quái quái, sinh dục các sở, giai tứ hải chi cự. Bồng Lai sơn, Tứ Vọng sơn, Ngưu Đầu sơn, Qua Phù sơn, Đột Tử sơn, Phù Du sơn, thất sơn sinh các dạng dị vật, trợ tướng hưng binh, tranh đoạt hán vị nhất thống. Lý tử truyền thập nhị đế, thái bình đại thiện, tương truyền lạc nghiệp. Tứ đại chi hậu, quần Sát nhập hội, nhiễu loạn thiên hạ, tranh đoạt phân liệt, khủng tác thập nhị quốc. Tử kỳ chí chi vật hốt.

Tạm dịch

Bá Ôn hỏi:

Lại có người nào chấn hưng?

Đạo nhân trả lời:

Nhà Minh tiêu diệt nhà Nguyên, lúc nhà Nguyên lại tiêu diệt nhà Minh.

Giết chóc lại bị vào lúc canh ba giờ Tý

Hai Ngàn cùng Người thôi đừng chạy

Một Hai Người Gỗ sẽ sinh Con

Sát Tinh xuống trần quấy rối bàn Trời. Mưa dầm suốt tháng, ngày đêm không ngủ, có Lúa không thóc, cha Bắc con Nam, người người ngẩng đầu, đứa đứa giành trước, lạ lạ lùng lùng, đẻ nuôi mọi chỗ, bốn bể đều đi, núi Bồng Lai, núi Tứ Vọng, núi Ngưu Đầu, núi Qua Phù, núi Đột Tử, núi Phù Du, bảy núi sinh ra các dạng vật lạ, giúp tướng dấy binh, tranh đoạt ngôi cầm đầu người Hán. Quả Mận truyền 12 đời vua, yên vui nhường ngôi, để lại niềm vui với việc làm ăn. Sau 4 đời, cả bầy Sát Tinh vào hội, quấy rối thiên hạ, giành giật xâu xé, sợ rằng làm 12 nước vậy. Con để bụng vào chớ sao nhãng.

 

Ghi chú:

-Trong ngoặc đơn là chú thích dựa vào nhiều nguồn

 

Sơ lược về Thiết Quan Đạo Nhân

Theo Minh sử, Phương kỹ truyện-明史- 方伎傳, Trương Trung 張中, tự Cảnh Hoa 景華, hiệu Thiết Quan Tử 鐵冠子, người Lâm Xuyên臨川, là thuật sỹ thời cuối Nguyên đầu Minh, chủ trương Tam Giáo hợp nhất. Ông là đạo sỹ của Tranh Minh Trung Hiếu Đạo淨明忠孝道, ở Thiết Trụ Diên Chân Vạn Ninh Cung, Tranh Minh Trung Hiếu Đạo do Hứa Tốn許遜Hứa Chân Quân許真君sáng lập. Hồi trẻ đi thi không đỗ, chơi bời non nước, gặp dị nhân dạy cho thuật xem số mệnh, đoán họa phúc. Thích đội mũ sắt nên gọi là Thiết Quan Tử. Khi Chu Nguyên Chương chiếm cứ Nam Xương, Đặng Dũ  tiến cử ông với Chu Nguyên Chương. Những dự đoán của ông nói với  Chu Nguyên Chương đều ứng nghiệm, như việc Khang Thái làm phản, việc đánh thắng Trần Hữu Lượng … Minh Thái Tổ đã đưa Thiết Quan Tử theo bên mình, trong trận đánh với Trần Hữu Lượng trên hồ Bà Dương, thuyền đến Cô sơn, trời không có gió thuyền không đi được, Thiết Quan Tử lập đàn cầu phong, gió to nổi lên, thuyền đến hồ Bà Dương thuận lợi. Hoặc như khi Nam Xương bị vây, Minh Thái Tổ hỏi bao giờ giải được vây, Thiết Quan Tử nói ngày Bính Tuất tháng 7, tin báo ngày Ất Dậu giải vây. Về sau khi soạn lại lịch, phát hiện ra Lịch Quan tính nhầm 1 ngày, tính đúng phải là ngày Bính Tuất. Đại khái ngay lúc sinh thời, lời đoán trước ứng nghiệm lạ thường.

Truyền rằng, về sau ở Nam Kinh, một hôm đi đến cầu nhảy xuống sông chết. Minh Thái Tổ ra lệnh tìm xác nhưng không tìm thấy.

1 nhận xét: