劉伯溫燒餅歌
明護國軍師劉基撰
Lưu Bá Ôn-Thiêu Bính Ca
Minh, Hộ quốc quân sư, Lưu Cơ soạn
明太祖一日身居內殿食燒餅方咬一口內監忽報國師劉基進見太祖以碗覆之始召基入禮畢帝問曰先生深明數理可知碗中是何物件
基乃揑指輪算對曰半似日兮半似月曾被金龍咬一缺此食物也開視果然
Phiên âm
Minh Thái Tổ nhất nhật thân cư nội
điện, thực thiêu bính, phương giảo nhất khẩu, nội giám hốt báo Quốc sư Lưu Cơ
tiến kiến, Thái Tổ dĩ uyển phúc chi, thủy triệu Cơ, nhập lễ tất, đế vấn viết:
Tiên sinh thâm minh số lý, khả tri uyển trung thị hà vật kiện?
Cơ nãi niết chỉ luân toán, đối viết:
Bán tự nhật hề bán tự nguyệt, tằng bị Kim Long giảo nhất khuyết, thử thực vật
dã! Khai thị, quả nhiên.
Tạm dịch
Một ngày, Minh Thái Tổ ở trong
cung cấm, ăn bánh nướng, vừa cắn một miếng, chợt người hầu báo có Quốc sư Lưu
Cơ xin gặp. Thái Tổ lấy bát úp lên chiếc bánh, rồi cho gọi Cơ vào, hành lễ
xong, vua hỏi rằng: Tiên sinh là người biết rõ và sâu về lý số, có thể biết
trong bát là cái gì không?
Cơ bấm tay tính toán, rồi đáp rằng:
Nửa giống mặt trởi nửa giống mặt trăng, từng bị con Rồng Vàng cắn mất một góc,
đấy là món ăn vậy! Mở ra, quả đúng như thế.
帝即問以天下後世之事若何
基曰茫茫天數我主萬子萬孫何必問哉
Phiên âm
Đế tức vấn dĩ thiên hạ hậu thế
chi sự nhược hà?
Cơ viết: Mang mang Thiên số, ngã
chủ Vạn tử Vạn tôn, hà tất vấn tai!
Tạm dịch
Vua bèn hỏi việc thiên hạ về sau
ra sao?
Cơ đáp: Số trời mênh mang, vua ta
Muôn con Muôn cháu, cần gì phải hỏi!
(ám chỉ nhà Minh có vua Vạn Lịch,
đến cháu của Vạn Lịch là Sùng Trinh thì nhà Minh sụp đổ)
帝曰雖然自古興亡原有一定況天下非一人之天下惟有德者能享之言之何妨試略言之
基曰洩漏天機臣罪非輕陛下恕臣萬死方敢冒奏
Phiên âm
Đế viết: Tuy nhiên, tự cổ hưng
vong nguyên hữu nhất định. Huống thiên hạ phi nhất nhân chi thiên hạ, duy hữu đức
giả năng hưởng chi, ngôn chi hà phương? Thí lược ngôn chi!
Cơ viết: Tiết lậu Thiên Cơ, thần
tội phi khinh. Bệ hạ thứ thần vạn tử, thần cảm mạo tấu.
Tạm dịch
Vua nói: Tuy rằng, từ xưa dấy lên
mất đi đều đã định trước không thay đổi. Vả lại thiên hạ không phải là thiên hạ
của một người, chỉ người có đức mới có thể được hưởng vậy, cứ nói ra ngại gì?
Thử nói qua xem sao!
Cơ đáp: Rò rỉ Thiên Cơ, tội của
thần không nhẹ. Đức vua tha cho bề tôi tội muôn chết, bề tôi mới dám liều tâu!
帝即賜以免死金牌基謝恩畢奏曰:我朝大明一統世界南方終滅北方興雖然太子是嫡裔文星高拱日防西
Phiên âm
Đế tức tứ dĩ miễn tử kim bài, Cơ
tạ ân tất, tấu viết: Ngã triều Đại Minh nhất thống thế giới, Nam phương chung
diệt Bắc phương hưng, tuy nhiên thái tử thị đích duệ, Văn tinh cao củng nhật
phòng tây.
Tạm dịch
Vua bèn ban cho thẻ tha tội chết
bằng vàng, Cơ tạ ơn xong, tâu rằng: Triều đại Đại Minh ta thống lĩnh thế giới,
phương Nam cuối cùng bị mất phương Bắc dấy
lên, tuy thái tử là con nối dõi, Văn tinh trên cao chầu về, mặt trời đề phòng
hướng tây.
(ý chỉ Chu Doãn Văn-Kiến Văn ở
Nam Kinh bị tiêu diệt)
帝曰朕今都城築堅守密何防之有
基曰臣見都城雖屬鞏固防守嚴密似覺無虞只恐燕子飛來(指太祖第四子燕王簒奪)
隨作歌三首曰此城御駕盡親征一院山河永樂平(燕王後號永樂)禿頂人來文墨苑(指姚廣孝)英雄一半盡還鄉(千忠會)
北方胡虜殘生命御駕親征得太平失算功臣不敢諫舊靈遮掩主驚魂
國壓瑞雲七載長胡人不敢害賢良相送金龍復故舊(英宗北狩得還)靈明日月振邊疆
Phiên âm
Đế viết: Trẫm kim đô thành trúc
kiên thủ mật, hà phòng chi hữu?
Cơ viết: Thần kiến đô thành tuy
thuộc trúc cố, phòng thủ nghiêm mật, tự giác vô ngu, chỉ khủng Yến tử phi lai
(chỉ Thái Tổ đệ tứ tử Yên vương soán đoạt).
Tùy tác ca tam thủ, viết: Thử
thành ngự giá tận thân chinh, nhất viện sơn hà Vĩnh Lạc bình (Yên vương hậu hiệu
Vĩnh Lạc), Đóa Đỉnh nhân lai văn mặc uyển (chỉ Diêu Quảng Hiếu), anh hùng nhất
bán tận hoàn hương (Thiên Trung Hội).
Bắc phương Hồ lỗ tàn sinh mệnh,
ngự giá thân chinh đắc thái bình, thất toán công thần bất cảm gián, cựu linh
già yểm chủ kinh hồn.
Quốc áp Thụy Vân thất tải trường,
Hồ nhân bất cảm hại hiền lương, tương tống Kim Long phục cố cựu (Anh Tông bắc
thú đắc hoàn), linh minh nhật nguyệt chấn biên cương.
Tạm dịch
Vua nói: Đô thành của trẫm ngày
nay xây dựng chắc chắn, trông coi kín kẽ, có gì phải đề phòng?
Cơ đáp: Bề tôi thấy đô thành tuy
rằng xây dựng vững chắc, trông coi kín kẽ, có vẻ như không có gì đáng lo, chỉ sợ
chim Én bay tới (nói về con trai thứ tư của Thái Tổ là Yên vương cướp ngôi).
Theo đó làm ba bài ca, ca rằng:
Thành ấy vua cầm quân tiến đánh, một dải non sông Mãi Vui yên ổn (Yên vương về
sau lấy hiệu là Vĩnh Lạc), người Trọc Đầu đến vườn văn sách (chỉ Diêu Quảng Hiếu),
anh hùng một nửa trở về quê (Thiên Trung Hội).
Phía bắc giặc Hồ làm hại dân
lành, nhà vua dẫn quân dẹp yên, tính nhầm mà các công thần chẳng dám can ngăn,
hồn ma cũ ngăn bắt làm vua sợ hãi.
(đây là nói về việc ở Thổ Mộc Bảo)
Đất nước Mây Lành bị đè nén suốt
bảy năm, người Hồ chẳng dám hại hiền lương, sẽ đưa Rồng Vàng về quê cũ (Anh
Tông bị bắt về phương bắc được thả về), mặt trăng mặt trời rạng rỡ giữ biên
cương.
帝曰此時天下若何
基曰天下大亂矣
Phiên âm
Đế viết: Thử thời thiên hạ nhược
hà?
Cơ viết: Thiên hạ đại loạn hỹ!
Tạm dịch
Vua hỏi: Lúc bấy giờ thiên hạ ra
sao?
Cơ đáp: Thiên hạ đại loạn vậy!
帝曰朕之天下有誰亂者
基曰天下飢寒有怪異棟樑龍德乘嬰兒禁宮闊大任橫走長大金龍太平時老揀金精尤壯旺相傳昆玉繼龍堂(英宗復辟)閹人任用保社稷八千女鬼亂朝綱(指魏忠賢)
Phiên âm
Đế viết: Trẫm chi thiên hạ hữu
thùy loạn giả?
Cơ viết: Thiên hạ cơ hàn hữu quái
dị, đống lương long đức thừa anh nhi, cấm cung khoát đại nhiệm hoành tẩu, trường
đại kim long thái bình thì. Lão luyện kim tinh vưu tráng vượng, tương truyền
Côn ngọc kế long đường (Anh Tông phục tịch), Yêm nhân nhiệm dụng bảo xã tắc,
Bát Thiên Nữ Quỷ loạn triều cương (chỉ Ngụy Trung Hiền).
Tạm dịch
Vua hỏi: Ai là người làm loạn
thiên hạ của trẫm?
Cơ đáp: Thiên hạ đói rét có việc
lạ lùng, rường cột nhà vua lại dựa vào đứa trẻ con, cung cấm rộng rãi dùng chạy
theo chiều ngang được, Rồng Vàng to dài thuở thái bình. Tinh túy của vàng được
trui rèn trở nên mạnh mẽ, nghe nói ngọc Côn sẽ nối ngôi vua (Anh Tông trở lại
làm vua), tin dùng bọn Thái Giám để giữ đất nước, Tám Nghìn Quỷ Cái làm loạn
phép nước (nói về Ngụy Trung Hiền).
帝曰八千女鬼亂朕天下若何
基曰忠良殺害崩如山無事水邊成異潭救得蛟龍真骨肉可憐父子順難當
Phiên âm
Đế viết: Bát thiên nữ quỷ loạn trẫm
thiên hạ như hà?
Cơ viết: Trung lương sát hại băng
như sơn, vô sự thủy biên thành dị đàm, cứu đắc giao long chân cốt nhục, khả lân
phụ tử thuận nan đương.
Tạm dịch
Vua hỏi: Tám nghìn con quỷ cái
làm loạn thiên hạ của trẫm ra sao?
Cơ đáp: Giết hại kẻ trung lương
xác chất thành núi, chẳng có việc gì mà ven nước lại thành đầm lạ, cứu được con
cái của giao long, khá thương cha con đồng lòng khó chống lại.
帝曰莫非父子互爭國乎
基曰非也樹上挂曲尺(指明朝朱姓)遇順則正至此天下未己
Phiên âm
Đế viết: Mạc phi phụ tử hỗ tranh
quốc hồ?
Cơ viết: Phi dã! Thụ thượng quải
Khúc Xích (chỉ Minh triều Chu tính), ngộ Thuận tắc chính, chí thử thiên hạ vị kỷ.
Tạm dịch
Vua hỏi: Chẳng phải là cha con
tranh nhau làm vua chăng?
Cơ đáp: Không phải! Trên cây treo
cái Thước Vuông (nói về nhà Minh là họ Chu), gặp Thuận ắt là đúng, đến đấy
thiên hạ chẳng phải của mình.
帝曰何為未己
基曰萬子萬孫層疊層(萬歷子孫)祖宗山上貝衣行(崇禎)公侯不復朝金闕十八孩兒難上難
卦曰木下一了頭目上一刀一戊丁(李自成亂)天下重文不重武英雄豪傑總無成戊子己丑亂如麻到處人民不在家偶遇飢荒草寇發平安鎮守好桂花(吳三桂)
Phiên âm
Đế viết: Hà vi vị kỷ?
Cơ viết: Vạn tử Vạn tôn tằng điệp
tằng (Vạn Lịch tử tôn), tổ Tông Sơn thượng Bối Y hành (Sùng Trinh), công hầu bất
phục triều cung khuyết, Thập Bát Hài Nhi nan thượng nan.
Quái viết Mộc hạ Nhất Liễu đầu, Mục
thượng nhất đao nhất Mậu Đinh (Lý Tự Thành loạn), thiên hạ trọng văn bất trọng
vũ, anh hùng hào kiệt tổng vô thành. Mậu Tý Kỷ Sửu loạn như ma, đáo xứ nhân
gian bất tại gia, ngẫu ngộ cơ hoang thảo khấu phát, bình an trấn thủ hảo Quế
hoa (Ngô Tam Quế).
Tạm dịch
Vua hỏi: Làm sao chẳng của mình nữa?
Cơ đáp: Muôn con Muôn cháu chồng
chất nhau (con cháu Vạn Lịch), tổ Tông trên Núi khoác Áo trên Lưng mà đi (Sùng
Trinh), công hầu chẳng quay lại chầu về vua, Mười Tám Con Trai khó khăn chồng
chất.
Bát quái nói rằng dưới Cây có một
Cái đầu, trên Mắt một con Dao, một Mậu Đinh (Lý Tự Thành làm loạn), thiên hạ
coi trọng văn nhân chẳng coi trọng võ sỹ, anh hùng hào kiệt chẳng làm nên trò
trống gì. Mậu Tý Kỷ Sửu rối như tơ vò, chốn chốn nhân dân chẳng ở nhà, chợt gặp
nạn đói giặc cỏ nổi dậy, yên bình trấn giữ hoa Quế đẹp (Ngô Tam Quế).
(chữ Sơn 山 trên chữ
Tông 宗 là chữ Sùng 崇 , chữ
Trinh 禎 có chữ Bối 貝 chữ Thị 示 gần giống
chữ Y 衣 , “Mười Tám Con Trai” là chữ Lý 李
, Mộc 木Nhất
一Liễu了là chữ
Lý 李, Mục目Đao
刀 là chữ Tự 自 , Mậu 戊
Đinh 丁 là chữ Thành 成)
帝曰偶遭飢荒平常小醜天下已乎
基曰西方賊擁亂到前無個忠良敢諫言喜見子孫恥見日衰頹氣運早昇天月缺兩二吉在中奸人機發走西東黃河涉過鬧金闕奔走梅花上九重(崇禎崩於煤山)
Phiên âm
Đế viết: Ngẫu tao cơ hoang bình
thường tiểu xú, thiên hạ dĩ hồ?
Cơ viết: Tây phương tặc ủng loạn
đáo tiền, vô cá trung lương cảm gián ngôn, hỷ kiến tử tôn sỉ kiến nhật, suy đồi
khí vận tảo thăng thiên. Nguyệt khuyết lưỡng Nhị Cát tại trung, gian nhân cơ
phát tẩu tây đông, Hoàng Hà thiệp quá náo kim khuyết, bôn tẩu Mai hoa thượng cửu
trùng (Sùng Trinh băng ư Môi sơn)
Tạm dịch
Vua hỏi: Ngẫu nhiên gặp nạn đói
là chuyện xấu nhỏ bình thường, thiên hạ đến như thế chăng?
Cơ đáp: Hướng Tây giặc nâng đỡ
nhau làm loạn ở trước mắt; chẳng có kẻ trung lương nào dám nói lời can ngăn; mừng
thấy con cháu, xấu hổ khi thấy mặt trời; vận khí đến lúc yếu kém, sụp đổ sớm
thôi; Trăng khuyết đôi Hai, điều Lành ở trong; kẻ gian nổi dậy khắp mọi nơi; vượt
qua Hoàng Hà quấy rối cung vua; chạy tới hoa Mai, lên tới chin tầng trời. (Sùng
Trinh chết ở Môi Sơn)
(Lý Tự Thành ở Thiểm Tây; chữ
Nguyệt 月 bỏ chữ Nhị 二 ở trong đi, cho chữ Cát 吉
vào là chữ Chu 周 chỉ Ngô Tam Quế xưng là Đại Chu)
帝曰莫非梅花山作亂乎從今命人看守何如
基曰非也遷南遷北定太平輔佐帝主有牛星運至六百又得半夢奇有字人心驚
Phiên âm
Đế viết: Mạc phi Mai Hoa sơn tác
loạn hồ? Tùng kim mệnh nhân khán thủ như hà?
Cơ viết: Phi dã! Thiên Nam thiên
Bắc định thái bình, phụ tá đế chủ hữu Ngưu tinh, vận chí Lục Bách hựu đắc Bán,
mộng kỳ hữu tự nhân tâm kinh.
Tạm dịch
Vua hỏi: Chẳng phải là làm loạn ở
núi Mai Hoa ư? Từ nay cho người coi giữ thế nào?
Cơ đáp: Không phải vậy! Chuyển về
Nam chuyển về Bắc rồi mới thái bình; giúp đỡ nhà vua có sao Ngưu; vận đến 600
năm lại được một nửa; giấc mơ lạ có chữ, lòng người rung động
(tổng kết về nhà Minh, dựng đô
hai lần ở Nam Kinh và Bắc Kinh, họ Chu có chữ Ngưu, vận khí được 300 năm)
帝曰有六百年之國祚朕心足矣尚望有半乎天機卿難言明何不留下錦囊一封藏在庫內世世相傳勿遺也急時有難則開視之可乎
基曰臣亦有此意遂又歌曰九尺紅羅三尺刀勸君任意自遊遨閹人尊貴不修武惟有胡人二八秋臣封櫃內俟後開時自驗
桂花開放好英雄拆缺長城盡孝忠(吳三桂出關請兵)周家天下有重復摘盡李花枉勞功黃牛背上鴨頭綠安享國家珍與粟雲蓋中秋迷去路胡人依舊胡人毒反覆從來折桂枝(三桂歸順後復叛滅之)水浸月宮主上立(清字)禾米一木併將去二十三人八方居
Phiên âm
Đế viết: Hữu lục bách niên chi quốc
tộ, trẫm tâm túc hỹ, thượng vọng hữu bán hồ. Thiên cơ khanh nan ngôn minh, hà bất
lưu hạ cẩm nang nhất phong, tàng tại khố nội, thế thế tương truyền vật di dã. Cấp
thời hữu nạn, tắc khai thị chi, khả hồ?
Cơ viết: Thần diệc hữu thử ý. Toại
hựu ca viết: Cửu xích hồng la tam xích đao, khuyến quân nhiệm ý tự du ngao, yêm
nhân tôn quý bất tu vũ, duy hữu Hồ nhân Nhị Bát thu. Thần phong quỹ nội, sỹ hậu
khai thời tự nghiệm.
Quế hoa khai phóng hảo anh hùng, sách
khuyết trường thành tận hiếu trung (Ngô Tam Quế xuất quan thỉnh binh), Chu gia
thiên hạ hữu trùng phục, trích tận Lý hoa uổng lao công. Hoàng ngưu bối thượng
Áp đầu Lục, an hưởng quốc gia trân dữ lật, vân cái trung thu mê khứ lộ, Hồ nhân
y cựu Hồ nhân độc, phản phúc tùng lai chiết Quế hoa (Tam Quế quy thuận, hậu phục
phản, diệt chi), Thủy tẩm Nguyệt cung Chủ thượng lập (Thanh tự), hòa Mễ nhất Mộc
tính tương khứ, nhị thập tam nhân Bát phương cư.
Tạm dịch
Vua nói: Phúc nước được 600 năm,
trẫm thỏa lòng rồi, chỉ mong được một nửa chăng. Thiên cơ nhà ngươi khó nói rõ,
sao chẳng giữ kín trong một túi gấm, để ở trong kho, đời đời truyền lại chớ để
mất, đến khi có nạn gấp gáp, ắt mở ra xem có thể được chăng?
Cơ đáp: Bề tôi cũng có ý ấy! Rồi
lại ca rằng: Chín thước lụa hồng ba thước đao, khuyên anh để ý lúc chơi bời,
tôn quý hoạn quan chẳng sửa sang quân đội, chỉ có người Hồ Hai Tám thu. Bề tôi
bọc kín ở trong hộp, về sau khi mở ra sẽ thấy ứng nghiệm.
Hoa Quế nở bung thật anh hùng,
làm nứt vỡ trường thành dốc hết hiếu trung (Ngô Tam Quế ra khỏi quan ải xin viện
binh), thiên hạ của nhà Chu một lần nữa trở lại, hái hết hoa Mận uổng công khó
nhọc. đầu Vịt Xanh trên lưng con Bò, an hưởng quốc gia ngọc ngà cùng thóc lúa,
mây che giữa mùa thu mờ mịt đường đi, người Hồ vẫn như xưa người Hồ ác độc,
quay trở lại bẻ hoa Quế (Tam Quế quy thuận, sau chống lại nên bị tiêu diệt). Nước
ngấm vào cung Trăng Vua đứng ở trên (chữ Thanh), Thóc lúa một Cây đều bỏ hết, Hai Mươi Ba người
ở Tám phương.
(lại nói về việc nhà Minh coi trọng hoạn quan,
và việc của Ngô Tam Quế. Hoàng Thái Cực ở sông Áp Lục, “Hồ nhân Nhị Bát thu” là
nhà Thanh 280 năm. Thủy 水
Nguyệt 月 Chủ 主 hợp lại
là chữ Thanh 清 . Bát phương chỉ Bát Kỳ)
帝曰二十三人亂朕天下八方安居否
基曰臣罪該萬死不敢隱瞞至此大明天下亡之久矣
Phiên âm
Đế viết: Nhị thập tam nhân loạn
trẫm thiên hạ, bát phương an cư hồ?
Cơ viết: Thần tội cai vạn tử, bất
cảm ẩn man. chí thử Đại Minh thiên hạ vong cửu hỹ.
Tạm dịch
Vua hỏi: 23 người làm loạn thiên
hạ của trẫm, ở yên tám phương ư?
Cơ đáp: Bề tôi tội đáng chết muôn
lần, chẳng dám dối dá giấu giếm, đến lúc ấy thiên hạ của Đại Minh mất lâu rồi.
帝大驚即問此人生長何方若何衣冠稱何國號治天下何如
基曰還有胡人二八秋二八胡人二八憂二八牛郎二八月二八姮娥配土牛
Phiên âm
Đế đại kinh tức vấn: Thử nhân
sinh trưởng hà phương? Nhược hà y quan? Xưng hà quốc hiệu? Trị thiên hạ hà như?
Cơ viết: Hoàn hữu Hồ nhân Nhị Bát
thu, Nhị Bát Hồ nhân Nhị Bát ưu, Nhị Bát Ngưu Lang Nhị Bát Nguyệt, Nhị Bát hằng
nga phối Thổ Ngưu.
Tạm dịch
Vua rất sợ bèn hỏi: Người ấy sinh
ra lớn lên ở chốn nào? Ăn mặc ra sao? Quốc hiệu là gì? Trị thiên hạ như thế nào?
Cơ đáp: Lại là người Hồ Hai Tám
mùa thu, Hai Tám người Hồ Hai Tám lo lắng, Hai Tám chàng chăn Trâu Hai Tám mặt
trăng, Hai Tám hằng nga lấy Trâu Đất.
(“Hồ nhân Nhị Bát thu” nhà Thanh ở
Trung Quốc 280 năm; “Nhị Bát Hồ nhân Nhị Bát ưu” Nhị 二 + Bát八 = Thập十
là nhà Thanh có 10 vua, 280 năm người Hán lo phục quốc; “ Nhị Bát Ngưu
Lang Nhị Bát Nguyệt” 2 x 8 = 16, nhà Minh 16 vua được 280 năm, Ngưu Lang là chỉ
họ Chu, kết thúc do đất Tần nổi dậy, tháng 2 tháng 8 là nửa mùa Xuân nửa mùa
Thu, nửa chữ Xuân 春 với nửa chữ Thu 秋
là chữ Tần 秦 , Lý Tự Thành người đất Tần; “Nhị Bát
hằng nga phối Thổ Ngưu” Trường Bình công chúa 16 tuổi gả cho Chu Hiển-còn gọi
là Chu Thế Hiển)
帝曰自古胡人無百年之國運乃此竟有二百餘年之運耶
基曰雨水草頭真主出(满洲)赤頭童子皆流血,倒置三元總纔說。須是川頁合成出(順治)十八年間水火奪庸人不用水火臣(康熙)此中自己用漢人卦分氣數少三數(在位六十一年)親上加親又配親
Phiên âm
Đế viết: Tự cổ Hồ nhân vô bách
niên chi quốc vận, nãi thử cánh hữu nhị bách dư niên chi vận da?
Cơ viết: Vũ Thủy Thảo đầu chân Chủ
xuất (Mãn Châu), Xích Đầu đồng tử giai lưu huyết, đảo trí Tam Nguyên tổng sàm
thuyết, tu thị Xuyên Hiệt hợp thành xuất. Dung nhân bất Dụng Thủy Hỏa Thần
(Khang Hy), thử trung tự kỷ dụng Hán nhân, Quái phân khí số thiểu tam số (tại vị
lục thập nhất niên), thân thượng gia thân hựu phối thân.
Tạm dịch
Vua nói: Từ xưa vận nước của người
Hồ không bao giờ được 100 năm, đến bấy giờ lại được hơn 200 năm ư?
Cơ đáp: Nước Mưa ngọn Cỏ chân chúa
ra đời (Mãn Châu); Đầu Đỏ trẻ con đều máu chảy; Tam Nguyên bị xếp ngược, tóm lại
là nói nhảm; nên là Đầu Dòng Nước hợp lại mà thành. Người Thường chẳng Dùng Bề
Tôi Nước Lửa (Khang Hy); trong lúc ấy bắt đầu dùng người Hán; khí số của các Quẻ
chia ra thiếu 3 số (ở ngôi 61 năm); trên
người nhà có thêm người nhà, lại lấy người nhà.
(chữ Vũ 雨 gần giống
chữ Lưỡng 兩 hợp với chữ Thủy 水
chữ Thảo 艹 là chữ Mãn 滿 . “Xích
Đầu” là đầu trần, chỉ việc để tóc như trẻ con, đây là thảm sát của nhà Thanh với
người Hán, với hiệu lệnh “để tóc thì mất đầu, muốn còn đầu thì cạo tóc”. “Tam
Nguyên đảo trí” là nói người Hồ “mọi rợ” lại đè đầu cưỡi cổ người Hán “văn
minh”! Chữ Xuyên 川 với chữ Hiệt 頁 là chữ
Thuận 顺 . Chữ Khang 康 là chữ
Dung 庸 bỏ chữ Dụng 用 thay bằng
chữ Thủy水, chữ Hy 煕 có chữ gần
giống Thần 臣 và chữ Hỏa 火 . Trùng
Quái có 64 quẻ, thiếu 3 quẻ còn 61. “thân thượng gia thân hựu phối thân” là
chuyện Khang Hy với bà cô.)
帝曰胡人至此用人水奪火滅親上加親莫非駙馬作亂乎
基曰非也胡人英雄水火既濟安享太平有位有勢時值昇平稱為盛世氣數未減還有後繼寶劍重磨又重磨抄家滅族可奈何閹人社稷藏邪鬼孝弟忠奸誅戮多李花結子正逢春牛鳴二八倒插丁六十周甲多一甲螺角倒吹也無聲點畫佳人絲自分一止當年嗣失真(雍正)泥雞啼呌空無口樹產靈枝枝缺魂朝臣乞來月無光叩首各人口渺茫(乾隆)一見生中相慶賀逍遙周甲樂飢荒(在位六十年)
Phiên âm
Đế viết: Hồ nhân chí thử dụng
nhân, thủy đoạt hỏa diệt, thân thượng gia thân, mạc phi phụ mã tác loạn hồ?
Cơ viết: Phi dã! Hồ nhân anh
hùng, thủy hỏa ký tế, an hưởng thái bình, hữu vị hữu thế, thời trị thăng bình,
xưng vi thịnh thế, khí số vị giảm, hoàn hữu hậu kế. Bảo kiếm trùng ma hựu trùng
ma, sao gia diệt tộc khả nại hà, yêm nhân xã tắc tàng tà quỷ, hiếu đễ trung
gian chu lục đa. Lý hoa kết quả chính phùng Xuân, Ngưu minh Nhị Bát đảo sáp
Đinh, Lục Thập hoa giáp đa Nhất giáp, loa giáp đảo xuy dã vô thanh. Điểm họa Giai
nhân Ty tự phân, Nhất Chỉ đương niên tự thất chân (Ung Chính), Nê Kê Đề Khiếu
không vô Khẩu, thụ sản linh chi chi Khuyết Hồn. Triều thần Khất lai Nguyệt vô
quang, Khấu thủ Các nhân Khẩu diểu mang (Càn Long), Nhất kiến Sinh trung tương
khánh hạ, tiêu dao Chu Giáp lạc cơ hoang. (tại vị lục thập niên)
Tạm dịch
Vua hỏi: Người Hồ từ đấy dùng người,
lấy nước dập lửa, trên người nhà thêm người nhà, chẳng phải là có con rể vua
làm loạn ư?
Cơ đáp: Không phải vậy! Người Hồ
anh hùng, lửa nước giúp nhau thành sức mạnh, an hưởng thái bình, có địa vị có
thế lực, đời được yên vui, gọi là thịnh thế, vận khí chẳng bớt đi, về sau có nối
theo. Kiếm báu mài đi mài lại; nhà cửa bị tịch thu, họ hàng bị giết sạch, biết
làm sao được; toàn là tà quỷ ở trong đám quan hoạn; từ người hiền lương hiếu
thuận, đến kẻ gian tà đều bị giết rất nhiều. Hoa Mận kết quả là vào mùa Xuân; Trâu
kêu Hai Tám đóng Đinh ngược; Sáu Mươi hoa giáp thêm Một giáp; thổi ngược cái tù
và bằng ốc nên không kêu. Vẽ vời người Đẹp, sợi Tơ tự chia ra; Một lần Dừng Lại
đang năm ấy, nối dõi mất đi sự chân thực (Ung Chính); Gà Bùn Gáy lên, trên
không không có Mồm; cây nảy ra cành quý, cành lại thiếu Hồn. Bề tôi Triều đình
Xin đến, Mặt Trăng không ánh sáng; Cúi đầu Các người Mồm xa vời (Càn Long); Một
lần nhìn thấy trong lúc Sinh ra, sẽ chúc mừng; thảnh thơi Một Vòng Hoa Giáp,
vui vẻ trong nạn đói (ở ngôi 60 năm).
(“Kiếm báu …. bị giết rất nhiều”
là nói về nhà Minh. “Hoa Mận kết quả là vào mùa Xuân; Trâu kêu Hai Tám đóng
Đinh ngược” là việc Lý Tự Thành chiếm Bắc Kinh vào mùa Xuân, nhà Minh sụp đổ. “Sáu
Mươi hoa giáp thêm Một giáp” là Khang Hy ở ngôi 61 năm. “thổi ngược cái tù và bằng
ốc nên không kêu” là làm chuyện ngược đời nên không thể thành sự. “Điểm họa” là
chữ Chủ 丶 chỉ dấu chấm trên đầu, chữ Ty 絲
chia ra là chữ Mịch 糸 , cùng với chữ Giai 佳thành
chữ Ung 雍 . Chữ Nhất 一 , chữ Chỉ 止 là chữ
Chính 正 . “nối dõi mất đi sự chân thực” là
nghi án Ung Chính sửa lại di chiếu để lên ngôi, hoặc là làm chiếu chỉ giả, chứ
không phải được Khang Hy lựa chọn. “Nê Kê” là nói mẹ Ung Chính xuất thân hèn
kém. Chữ Đề 啼 bỏ chữ Khẩu 口 là chữ Đế ; chữ Khiếu 叫 bỏ chữ
Khẩu 口 là chữ Đẩu 斗 , chữ Đẩu
斗
chia ra thành chữ Thập 十 chữ Tam 三 , là nói
Ung Chính làm vua 13 năm. “cây nảy ra cành quý, cành lại Thiếu Hồn” có nghi án
Càn Long là người Hán, được đánh tráo vào. Chữ Triều 朝 lấy chữ
Khất 乞 thay chữ Nguyệt 月
thành ra chữ Càn 乾 . Chữ Khấu 叩 bỏ đi chữ
Khẩu 口 còn chữ Phụ 阝 , chữ
Các 各 bỏ đi chữ Khẩu 口
còn chữ Truy 夊 ; chữ Phụ 阝 chữ Truy
夊
thêm chữ Nhất 一 chữ Sinh 生 thành ra
chữ Long 隆 ; nguyên chú chữ “Càn Long” đặt chưa
đúng chỗ, lẽ ra phải đặt ở sau câu “Nhất kiến Sinh trung tương khánh hạ”. “Một
Vòng Hoa Giáp” là 60 năm, Càn Long ở ngôi 60 năm, thích chơi bời hưởng lạc
trong cảnh nạn đói xảy ra triền miên; thích việc to tát, ham thành tích công trạng,
xây dựng đền đài, phát động chiến tranh, nạn tham nhũng tràn lan, dẫn tới quốc
khố trống rỗng.
帝曰胡人到此敗亡否
基曰未也雖然治久生亂值此困苦民懷異心然氣數未盡也廿歲力士開雙口人又一心度短長(嘉慶)時俺寺僧八千眾火龍渡河熱難當叩首之時頭小兀姮娥雖有月無光(道光)太極殿前卦對卦(咸豐)添春禳斗鬧朝堂金羊水猴飢荒歲犬吠豬鳴泪兩行洞邊去水台用水方能復正舊朝綱(同治)火燒鼠牛猶自可虎入泥窩無處藏草頭家上十口女又抱孩兒作主張(光緒)二四八旗難蔽日遼陽思念舊家鄉東拜斗西拜旗南逐鹿北逐獅分南分北分東西偶逢異人在楚歸馬行萬尋殘害中女四木雞六一人不識山水倒相逢黃龍早喪赤城中豬羊雞犬九家空飢荒災害皆並至一似風登民物同得見金龍民心開刀兵水火一齊來文錢斗米無人糴父死無人兄弟抬天上金龍絆馬甲二十八星問土人蓬頭幼女蓬頭嫁揖讓新君讓舊君
Phiên âm
Đế viết: Hồ nhân chí thử bại vong
phủ?
Cơ viết: Vị dã. Tuy nhiên trị cửu
sinh loạn, trị thử khốn khổ, dân hoài dị tâm, nhiên khí vận vị tận dã. Nhập tuế
Lực Sỹ khai Song Khẩu, nhân hựu Nhất Tâm Độ đoản trường (Gia Khánh), thời yểm Tự
Tăng bát Thiên chúng, Hỏa Long độ Hà Nhiệt nan đương. Khấu Thủ chi thời đầu Tiểu
Ngột, hằng nga tuy hữu Nguyệt Vô Quang (Đạo Quang). Thái Cực điện tiền Quái đối
Quái (Hàm Phong), thiêm Xuân nhượng Đẩu náo triều đường, Kim Dương Thủy Hầu cơ
hoang tuế, Khuyển phệ Chư minh lệ lưỡng hàng. Động biên khứ Thủy Đài dụng Thủy,
phương năng phục chính cựu triều cương (Đồng Trị), hỏa thiêu Thử Ngưu do tự khả,
Hổ nhập nê oa vô xứ tàng. Thảo đầu gia thượng Thập Khẩu nữ, hựu bão hài nhi tác
chủ trương (Quang Tự), nhị tứ Bát kỳ nan tế nhật, Liêu Dương tư niệm cựu gia
hương. Đông bái Đẩu Tây bái Kỳ, Nam trục Lộc Bắc trục Sư, phân Nam phân Bắc
phân Đông Tây, ngẫu phùng dị nhân tại Sở quy. Mã hành vạn tầm tàn hại trung, Nữ
tứ Mộc Kê Lục Nhất Nhân, bất thức Sơn Thủy đảo tương phùng, Hoàng Long tảo táng
Xích Thành trung, Trư Dương Kê Khuyển cửu gia không, cơ hoang tai hại giai tịnh
chí, nhất tự phong đăng dân vật đồng. Đắc kiến Kim Long dân tâm khai, đao binh
thủy hỏa nhất tề lai, văn tiền đẩu mễ vô nhân địch, phụ tử vô nhân huynh đệ
đài. Thiên thượng Kim Long bán Mã Giáp, Nhị Thập Bát tinh vấn Thổ Nhân, Bồng đầu
Ấu Nữ bồng đầu giá, ấp nhượng tân quân nhượng cựu quân.
Tạm dịch
Vua hỏi: người Hồ bấy giờ đã bại
vong chưa?
Cơ đáp: Chưa đâu! Tuy nhiên trị
lâu sẽ sinh loạn. Đang lúc khốn khổ, người dân sẽ nghĩ khác đi, nhưng khí vận
chưa hết. Lực Sỹ Hai Mươi tuổi mở Hai Mồm, người lại Một Lòng Đo dài ngắn (Gia
Khánh), bấy giờ tám Ngàn sư được che giấu trong chùa, Rồng lửa sang Sông sức
nóng khó chịu đựng được. Trong lúc cúi Đầu, Chỏm Nhỏ trên đầu; tuy có hằng nga
Trăng không có Ánh Sáng (Đạo Quang). Trước điện Thái Cực Quẻ nhìn Quẻ (Hàm
Phong); thêm Xuân nhường địa vị làm rối triều đình; Dê Vàng, Khỉ Nước năm có nạn
đói; Chó sủa Lợn kêu nước mắt chảy hai hàng. Bên Hang Nước chảy đi, Đài dùng Nước;
có thể dựng lại triều đình cũ (Đồng Trị); lửa cháy Chuột Trâu vẫn có thể; Hổ
vào vũng bùn không chỗ giữ. Đầu Cỏ trên nhà, Con Gái Mười Mồm; lại ôm con nhỏ nắm
giữ các việc (Quang Tự); Bát Kỳ không thể che được mặt trời; nghĩ về quê cũ ở
Liêu Dương. Đông lạy Vua, Tây chào Cờ; Nam đuổi Hươu, Bắc đuổi Sư Tử; chia Bắc
chia Nam chia Đông Tây; chợt gặp dị nhân ở đất Sở quay về. Ngựa đi muôn sải
(tay) trong tàn hại; Con gái bốn con Gà Gỗ, Sáu Một người; chẳng biết Nước Núi
lộn lại gặp nhau; Rồng Vàng sớm chôn ở Thành Đỏ; Lợn Dê Gà Chó chín nhà rỗng;
đói kém, tai hại đều cùng đến; tựa như gió nổi lên, người và vật cùng nhau. Được
thấy Rồng Vàng, dân mở lòng; nạn binh đao thủy hỏa cùng đến một lúc; một đồng cắc
một đấu gạo không ai đong; bố chết không người, anh em khiêng. Trên trời Rồng
Vàng ngăn Giáp Ngựa; Hai Tám vì sao hỏi Người Đất; bé gái đầu rối bù, đầu rối
bù lấy chồng; xin nhường vua mới, nhường vua cũ.
(chữ Nhập 廿
chữ Lực 力 chữ Sỹ 士 hai chữ
Khẩu 口 ghép thành chữ Gia 嘉
, chữ Nhất 一 chữ Tâm 心 chữ Độ 度
ghép thành chữ Khánh 慶 ; “thời yểm Tự Tăng bát Thiên chúng” thời
Gia Khánh có các cuộc nổi dậy của Bạch Liên Giáo, Thiên Lý Giáo, hai phái Phật
giáo; “Hỏa Long độ Hà Nhiệt nan đương” người đời nói rằng, Gia Khánh chết ở Nhiệt
Hà là do một quả cầu lửa bay vào trong phòng, rồi nổ tung, nên bị chết cháy,
cái mà bây giờ gọi là Sét Hòn. Chữ Thủ 首 chữ Chi 之
ghép thành chữ Đạo 道 ; chữ Tiểu 小 chữ Ngột 兀 ghép
thành chữ Quang 光 ; “Trăng không có Ánh Sáng” là ngày cuối
tháng âm lịch, Đạo Quang ở ngôi 30 năm. “Thái Cực điện tiền Quái đối Quái” quẻ
Hàm và quẻ Phong là hai quẻ trong 64 trùng Quái, Hàm Phong lên ngôi ở điện Thái
Cực; “thiêm Xuân” là nói về “ngũ Xuân” ở vườn Viên Minh, Hàm Phong chơi bời rượu,
gái, thuốc phiện, sức lực đâu mà trị nước. “Kim Dương” là mùa thu năm Mùi; “Thủy
Hầu” là mùa đông năm Thân, Bắc Kinh bị liên quân Anh Pháp tấn công, vườn Viên
Minh bị đốt. “Khuyển phệ Chư minh” Từ Hy bắt đầu nhiếp chính, đã loạn lại càng
thêm loạn. Chữ Động 洞 bỏ đi chữ Thủy 水còn
lại chữ Đồng 同 ; chữ Đài 台 thêm chữ Thủy 水 thành ra chữ Trị 治.
“Thảo đầu gia thượng” là chữ Từ 慈 , chữ Thập 十 chữ Khẩu
口
chữ Nữ 女 là chữ Hy 嬉 , đồng
âm với chữ Hy 禧 ; “hựu bão hài nhi tác chủ trương” là
nói về việc Quang Tự còn nhỏ, Từ Hy nhiếp chính. Liêu Dương là quê nhà của người Mãn, cuối cùng
thì người Mãn đã trở về quê. “Tây bái Kỳ” là người phương Tây ở Trung Hoa. “Nam
trục Lộc Bắc trục Sư, phân Nam phân Bắc phân Đông Tây” khởi nghĩa Vũ Xương và
thành lập Dân Quốc, Trung Quốc chia năm sẻ bảy. “dị nhân tại Sở” đất Sở tức là
Hồ Nam bây giờ, Tăng Quốc Phiên, Mao Trạch Đông đều là người ở đấy. “muôn tầm”
Tầm là đơn vị đo chiều dài, một sải tay, thường thì sải tay của ai thì bằng chiều
cao của người ấy, 1 tầm = 8 thước. )
帝曰胡人至此敗亡否
基曰手執鋼刀九十九殺盡胡人方罷休炮响火煙迷去路遷南遷北六三秋可憐難渡之門關摘盡李花胡不還黃牛山上有一洞可投拾萬八千眾先到之人得安穩後到之人半路送難恕有罪無不罪天下算來民盡瘁火風鼎兩火初興定太平火山旅銀河織女讓牛星火德星君來下界金殿樓臺盡丙丁一個鬍子大將軍按劍馳馬察情形除暴去患人多愛永享九州金滿籯
Phiên âm
Đế viết: Hồ nhân chí thử vong hồ?
Cơ viết: Thủ chấp Kim Đao Cửu Thập
Cửu, sát tận Hồ nhân phương bãi hưu, pháo hưởng hỏa yên mê khứ lộ, thiên Nam
thiên Bắc Lục Tam thu. Khả lân nan độ chi môn quan, trích tận Lý hoa Hồ bất
hoàn. Hoàng Ngưu sơn hạ hữu nhất động, khả đầu thập vạn bát thiên chúng, tiên
đáo chi nhân đắc an ổn, hậu đáo chi nhân bán lộ tống. Nan thứ hữu tội vô bất tội,
thiên hạ toán lai dân tận tụy. Hỏa Phong Đỉnh, Lưỡng Hỏa sơ hưng định thái bình,
Hỏa Sơn Lữ, Ngân Hà Chức Nữ nhượng Ngưu tinh, Hỏa Đức Tinh Quân lai hạ giới,
kim điện lâu đài tận Bính Đinh. Nhất cá Hồ Tử đại tướng quân, án kiếm trì mã
sát tình hình, trừ bạo khử hoạn nhân đa ái, vĩnh hưởng Cửu Châu kim mãn doanh.
Tạm dịch
Vua hỏi: Người Hồ bấy giờ đã bại
vong chưa?
Cơ đáp: Tay cầm Đao Vàng Chín, Mười,
Chín; giết sạch người Hồ mới chịu thôi, pháo nổ lửa khói mù mịt đường đi; chuyển
về Nam, chuyển về Bắc, Sáu, Ba mùa thu. Khá thương khó vượt qua được cửa quan ở
biên giới; bẻ sạch hoa Mận, người Hồ chẳng quay lại. Dưới núi Hoàng Ngưu có một
cái động; có thể chứa được mười vạn tám ngàn người; người nào đến trước được
yên ổn; người nào đến sau, nửa đường bị đưa đi. Khó có thể tha thứ cho việc có
tội, không gì là chẳng có tội; thiên hạ tính toán đến đây, người dân đã gắng hết
sức. Lửa và Gió là quẻ Đỉnh; Hai Lửa vừa dấy lên là lúc thái bình; Lửa và Núi
là quẻ Lữ; trên Ngân Hà sao Chức Nữ nhường sao Ngưu Lang; Hỏa Đức Tinh Quân xuống
dưới trần; cung điện lâu đài ở cuối của Bính Đinh. Một người râu xồm làm đại tướng;
cầm kiếm ruổi ngựa xem xét tình hình; loại bỏ kẻ bạo ngược, làm hết nỗi lo lắng,
người người đều rất mến; mãi được hưởng phúc trong Chín Châu, vàng đầy hòm.
(Lưỡng Hỏa là chữ Viêm 炎 ,
Bính Đinh thuộc phương Nam; Ngưu, Nữ là sao trong Nhị thập bát tú.)
帝曰胡人此時尚在否
基曰胡人至此亡之久矣四大八方有文星品物咸亨一樣形琴瑟和諧成古道左中興帝右中興五百年間出聖君周流天下賢良輔氣運南方出將臣聖人能化亂淵源八面夷人進貢臨宮女勤針望夜月乾坤有象重黃金北方胡虜害生靈更會南軍誅戮行匹馬單騎安外國眾君揖讓留三星上元復轉氣運開大修文武聖主裁上下三元無倒置衣冠文物一齊來七元無錯又三元大開文風考對聯猴子沐盤雞逃架犬吠豬鳴太平年文武全才一戊丁流離散亂皆逃民愛民如子親兄弟創立新君修舊京千言萬語知虛實留與蒼生作證盟
Phiên âm
Đế viết: Hồ
nhân chí thử thượng tại phủ?
Cơ viết: Hồ
nhân chí thử vong cửu hỹ! Tứ đại bát phương hữu Văn tinh, phẩm vật hàm hanh nhất
dạng hình, cầm sắt hòa hài thành cổ đạo, tả trung hưng đế hữu trung hưng. Ngũ
bách niên gian xuất Thánh Quân, chu lưu thiên hạ hiền nhân phụ, khí vận Nam
phương xuất tướng thần. Thánh nhân năng hóa loạn uyên nguyên, bát diện di nhân
tiến cống lâm, cung nữ cần châm vọng dạ nguyệt, Càn Khôn hữu tượng trọng hoàng
kim. Bắc phương Hồ lỗ hại sinh linh, cánh hội Nam quân chu lục hành, thất mã
đơn kỵ an ngoại quốc, chúng quân ấp nhượng lưu tam tinh. Thượng Nguyên phục
chuyển khí vận khai, đại tu văn vũ Thánh chủ tài, Thượng Hạ Tam Nguyên vô đảo
trí, y quan văn vật nhất tề lai. Thất Nguyên bất thác hựu Tam Nguyên, đại khai
văn phong khảo đối liên, Hầu tử mộc bàn Kê đào giá, Khuyển phệ Chư minh thái
bình niên. Văn vũ toàn tài nhất Mậu Đinh, lưu ly tán loạn giai đào dân, ái dân
như tử thân huynh đệ, sáng lập tân quân tu cựu kinh. Thiên ngôn vạn ngữ tri hư
thực, lưu dữ thương sinh tác chứng minh!
Tạm dịch
Vua hỏi: Người
Hồ lúc bấy giờ còn không?
Cơ nói: Người
Hồ mất lâu rồi! Bốn phương tám hướng có văn tinh; muôn vật thỏa sức sinh sôi nảy
nở giống như nhau; đàn Cầm đàn Sắt âm thanh hòa quyện thành đạo của người xưa;
bên trái vua trung hưng, bên phải cũng trung hưng. Trong 500 năm có Vua Thánh
ra đời; các bậc hiền lương khắp trong thiên hạ đều giúp sức; khí vận ở phương
Nam có bề tôi là tướng ra đời. Thánh Nhân có khả năng thay đổi được nguồn gốc
sinh ra loạn lạc; tám hướng người Di mang đồ tiến cống đến; cung nữ chịu khó
thêu thùa đan lát, trông trăng ban đêm; Trời Đất có hình tượng của việc nặng về
vàng bạc. Phương Bắc người Hồ cướp phá giết tróc; lại gặp quân phương Nam làm
chuyện chém giết; một người một ngựa ở nước ngoài; các vua xin nhường, giữ lại
ba vì sao. Thượng Nguyên quay lại vận khí mở ra; sửa sang văn võ, Thánh nhân
vun đắp; trên dưới Tam Nguyên không bị xếp ngược; trang phục, văn hóa tốt đẹp
cùng đến một lúc. Thất Nguyên chẳng sai, lại Tam Nguyên; mở rộng phong cách làm
văn, khảo về câu đối; con Khỉ tắm trên Mâm, con Gà nhảy khỏi Giá Đỡ; Chó sủa Lợn
kêu là năm thái bình. Văn võ toàn tài một Mậu Đinh; chia ra đi lung tung đều là
người dân bỏ chạy; yêu mến người dân như con, như anh em ruột thịt; sáng lập
vua mới, sửa lại kinh đô cũ. Ngàn lời muôn câu biết là sai hay đúng, giữ lại với
mọi người để xem đúng hay sai!
(Thất Nguyên,
là chu kỳ vận hành của Thất Chính, tức là Ngũ tinh Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ và Nhật
Nguyệt. Theo phép làm lịch
lấy chu kỳ của Nhị Thập Bát Tú phối hợp với chu kỳ của Lục Thập Hoa Giáp thành
Thất Nguyên. Nhất Nguyên Giáp Tý khởi tính từ Hư, Nhị Nguyên Giáp Tý khởi tính
từ Khuê, Tam Nguyên Giáp Tý khởi tính từ Tất, Tứ Nguyên Giáp Tý khởi tính từ Quỷ,
Ngũ Nguyên Giáp Tý khởi tính từ Dực, Lục Nguyên Giáp Tý khởi tính từ Đê, Thất
Nguyên Giáp Tý khởi tính từ Cơ. Một chu kỳ là 420, gồm 7 nguyên của Lục Thập
Hoa Giáp.)
Chú thích:
-Chữ Hán
trong ngoặc đơn là chú thích của nguyên văn.
-Trong ngoặc
đơn sau mỗi phần là tạm chú thích, tham khảo từ nhiều nguồn khác nhau.
Chào anh Viên Thông,
Trả lờiXóaTôi biết đôi chút lịch sử Trung Quốc, xin tạm giải đoạn 18 từ lúc Thanh Mạt đến Cận Đại như sau:
nhị tứ Bát kỳ nan tế nhật, 二四八旗難蔽日
- Bát Kỳ không thể che được mặt trời; Chiến tranh Thanh-Nhật (7/1894). Nhị tứ Bát Kỳ tức 24 kỳ (gồm Bát Kỳ Mãn Thanh, Bát Kỳ Mông Cổ, và Bát Kỳ Hán)
Liêu Dương tư niệm cựu gia hương. 遼陽思念舊家鄉
- nghĩ về quê cũ ở Liêu Dương (Thẩm Dương Liêu Đông). 1912, chấm dứt triều Thanh
Đông bái Đẩu Tây bái Kỳ, 東拜斗西拜旗
- Đông lạy Vua, Tây chào Cờ;
Nam trục Lộc Bắc trục Sư, 南逐鹿北逐獅
- Nam đuổi Hươu, Bắc đuổi Sư Tử.
phân Nam phân Bắc phân Đông Tây, 分南分北分東西
- chia Bắc chia Nam chia Đông Tây; Tệ nạn các sứ quân sau Viên Thế Khải (thời kỳ quân phiệt 1916-1928)
ngẫu phùng dị nhân tại Sở quy. 偶逢異人在楚歸
- chợt gặp dị nhân ở đất Sở quay về (chỉ Mao Trạch Đông, Diên An thuộc Thiểm Tây, là đất Sở xưa, Hạng Vũ phong cho 3 hàng tướng để kiềm chế Lưu Bang đang ở đất Thục, gọi là Tam Tần. MTĐ gốc người Hồ Nam thuộc Sở). 1921 Mao tham gia Đại hội thành lập ĐCS tại Thương Hải.
Mã hành vạn tầm tàn hại trung, 馬行萬尋殘害中
- Ngựa đi muôn sải (tay) trong tàn hại. Vạn lý trường chinh (1934-35, Giáp Tuất-Ất Hợi). Tầm là đơn vị đo chiều dài, giống như lý, và hàm ý chậm. Lúc đi hơn 86000 người, tới nơi còn hơn 7000 (tàn hại). Chuyến đi vẫn có ít ngựa cho các cán bộ cao cấp cỡi. Ngựa đi chớ không phải chạy, tức chậm chạp.
Nữ tứ Mộc Kê Lục Nhất Nhân, 女四木雞六一人
- Con gái bốn con Gà Gỗ, Sáu Một người. Tôi nghĩ để chỉ năm Ất Dậu 1945, nhưng chưa thể tìm được sự liên hệ với những chữ còn lại. Năm này, Nhật đầu hàng, và Liên Hiệp Quốc được thành hình với 51 nước.
bất thức Sơn Thủy đảo tương phùng,不識山水倒相逢
- chẳng biết Nước Núi lộn lại gặp nhau (Tưởng Giới Thạch (Núi) và Mao Trạch Đông (Thủy) lại đổi ngôi, 1949). 'Thạch' nghĩa là đá, chỉ núi, và 'trạch' nghĩa là cái đầm chỉ nước.
Hoàng Long tảo táng Xích Thành trung, 黃龍早喪赤城中
- Rồng Vàng sớm chôn ở Thành Đỏ. Chỉ Mao Trạch Đông mất năm 1976 xác được quàng ở quảng trường Thiên An Môn, Bắc Kinh.
tảo 早 trùng âm với tảo 藻, (Danh) Vẻ đẹp, hình thức hoa lệ. § Rong có văn vẻ, cổ nhân dùng để trang sức mũ áo, cho nên cái gì dùng làm cho đẹp đều gọi là tảo, hàm ý nơi quàng xác MTĐ được trang trí rất xinh đẹp, xa xỉ. 'thành', tức khu vực rất kiên cố, có lính canh giữ ngày đêm. Quanh thành tường đỏ, tức 'xích'. Giai đoạn này, vua Phổ Nghi chết năm 1967 cũng ở Bắc Kinh, tuy nhiên, ông là vị vua cuối cùng của triều Thanh không có thực quyền, chẳng xứng với nghĩa 'hoàng long'
Phần còn lại là chuyện cho tương lai chưa xảy ra.
Một tuần mà anh suy luận ra cái mớ rối rắm ấy, thực đáng khâm phục. Xét bài ca này, họ Lưu thường dùng cách nói xem kẽ giữa các đời, chứ không xuôi một chiều như Vạn Niên Ca, Thôi Bối Đồ ...như kiểu thủ pháp "không gian đồng hiện" của văn học hiện đại. Dựa theo ý của anh, có thể suy luận tiếp:
Xóa-Nữ tứ Mộc Kê Lục Nhất Nhân, 女四木雞六一人 chỉ Giang Thanh và Lũ Bốn Tên. Giang Thanh vào Bộ Chính Trị mùa Xuân năm Gà 1969, Lục Nhất Nhân 六一亻là chữ Vị 位.
-bất thức Sơn Thủy đảo tương phùng,不識山水倒相逢 là quẻ Thủy Sơn Kiển, bế tắc, hoạn nạn.
-Hoàng Long là Bính Thìn 1976, nạp âm ngũ hành thuộc Thổ. Mao hết số năm này.
Chúng tôi có vài ý nhỏ như vậy, góp thêm với anh, xem liệu có ra nhẽ không.
Trư Dương Kê Khuyển cửu gia không, cơ hoang tai hại giai tịnh chí. Thời gian của tư tưởng "vĩ đại", với những 'tập thể hóa", "công xã nhân dân", "đại nhảy vọt", "bắt chim sẻ", "nhà nhà luyện thép" ... dẫn đến chết đói như rạ.
XóaTôi nghĩ 'hoàng long' không phải là Bính Thìn, vì màu vàng thuộc hành Thổ (can Mậu Kỷ), mà để chỉ vị vua theo văn hóa TQ, trong trường hợp này là Mao Trạch Đông, và một sự trùng hợp ngẫu nhiên ông mất năm này.
Trả lờiXóaHoàng Long là vua cũng đúng, còn Bính Thìn là Sa Trung Thổ cũng thông, hay là hay ở chỗ ấy.
XóaThấy các trang mạng nói về Thôi Bi Đồ cũng của Lưu Bá Ôn. Nếu có thể, xin anh hãy post lên. Cảm ơn nhiều.
Trả lờiXóaChào anh! Chúng tôi chưa được nhìn thấy bản Thôi Bối Đồ của họ Lưu, một cái gì đó có thể đáng tin, một văn bản cũ. Như chúng tôi được biết một số bản khác, vẽ màu và đen trắng. Các bản ấy phần lớn là tương tự nhau, nhưng khá khác biệt với bản đã đăng tải. Khác biệt về thứ tự, không có lời sấm, chỉ có lời tụng, nội dung và hình vẽ sai khác khá nhiều. Chúng tôi dùng bản được nhiều nhà nghiên cứu dùng, và được phân tích bình giải. Những bản kia như chúng tôi biết, gồm có các bản chép tay hiện lưu giữ ở : đại học Havard 2 bản màu, Münchener DigitalisierungsZentrum 1 bản màu, Đài Bắc Quốc Gia Đồ Thư Quán 1 bản màu, thư viện thành phố Annapolis tiểu bang Maryland 1 bản màu. Một bản in đen trắng không rõ niên đại, có lời tựa của Lý Thuần Phong. Bản ở đại học Havard có lời tựa của Diêu Quảng Hiếu, quân sư của Minh Thành Tổ. Việc các triều đại phong kiến cho viết ngụy thư với mục đích làm rối loạn chính văn thường xảy ra, Thôi Bối Đồ không phải là ngoại lệ. Tương tự nhà Đường sai Nhất Hạnh viết Diệt Man Kinh ... Nếu cần thực sự nghiên cứu để so sánh, rất cần đọc được chính văn chữ thảo và hành, vì các văn bản này phần nhiều dùng thảo và hành thư để viết, rất khó đọc. Nếu anh có nhu cầu tải về để nghiên cứu, có thể tải về ở đây: https://drive.google.com/drive/folders/1FRgtbjGGwVif3JJHBzLPgeoknOBtInpo
XóaNhư thiển ý của chúng tôi, nó chỉ làm rối loạn thêm mà thôi, chưa biết có lợi hay là bất lợi cho việc nghiên cứu. Tận tín ư thư bất như vô thư!
Chào anh,
Trả lờiXóaSách tên "Thôi Bi Đồ" (chớ không phải "Thôi Bối Đồ") được gán cho là của Lưu Bá Ôn, mà trang chanhkien.org dịch, có đoạn mở đầu như sau:
"Nam Kinh Thương Thiên phủ sét chấn động hạ một bia, hiện xuất quyển kinh có hai cuốn——«Định Kiếp», «Hiền Bảo» và «Thôi Bi Đồ» nhị quyển, tam quyển dần dần hạ xuống báo ứng nghiệm."
với lời dẫn:
"Năm 1915 Ất Mão, mặt đất ở tỉnh Sơn Tây đột nhiên nứt ra, hiện xuất bia văn của Lưu Bá Ôn, gồm hai phần, theo thể thơ ngũ ngôn, tổng cộng 148 câu. Ngoài ra còn có vật cống phẩm và «Thôi Bi Đồ» của Lưu Bá Ôn từ 550 năm trước đây, tổng cộng 3 quyển"
Theo ý tôi có xuất xứ rất mù mờ. Tôi đọc thử và thấy văn phong chẳng chút gì giống "Thiệu Bính Ca" cả. Những bài anh đã đăng có dẫn chứng nguồn đáng tin cậy, có thể dùng để phụ giúp các bài nghiên cứu. Rất cảm ơn.
Chào anh! Chúng tôi lại nghĩ anh gõ bị lỗi. Về Bi Ký của họ Lưu, bản đáng tin cậy do Chu Tiếu Cầm ghi lại, chỉ tiên đoán đến năm 1945, phe trục thua trong thế chiến 2, văn từ ngắn gọn, nó là "Kim Lăng tháp tàng bi". Kim Lăng tháp tàng bi xuất hiện năm 1927, khi Quốc Dân đảng lấy Nam Kinh làm thủ đô, phá tháp do Lưu Bá Ôn dựng, để mở đường Trung Sơn. Các bản "sao tẩm" "xào xáo" lại sau này rất lung tung, tùy tiện, theo ý đồ chính trị. Lưu Bá Ôn Số Kiếp Bi Ký là một văn bản đồn rằng lưu truyền từ những năm 1915, tương tự như Kim Lăng tháp bi ký. Nghi vấn ở đây là, tại sao không thấy họ Chu nhắc đến nó? Ngày nay, nhiều người lợi dụng, thêm thắt, xuyên tạc, nhằm mưu lợi. Còn đó là những ai, anh có thể suy luận ra, chúng tôi không muốn áp đặt ý kiến cá nhân. Tất cả các trang mạng tiếng Hán, phồn và giản thể, đều biên tập theo ý đồ riêng, trong đó có một số trang đã đưa ra cái gọi là "văn bản cổ" của Lưu Bá Ôn Số Kiếp Bi Ký. Các tư liệu ảnh chụp Lưu Bá Ôn Số Kiếp Bi Ký có độ phân giải rất thấp, chất lượng bản in gốc kém, rất khó đọc, người ta lại không dẫn nguồn là trong sách nào. Chúng tôi đã mất rất nhiều thời gian để đọc nó, nghiên cứu xem nó ở sách nào, ở đâu mà ra? Chúng tôi nhận ra một vài điều như sau:
Xóa-Văn bản Lưu Bá Ôn Số Kiếp Bi Ký được in trong sách "hàng chợ", dạng như Thông Thư, cái mà ở Tàu gọi là "phường bản". Trong sách trình bày nhiều thứ, như xem ngày, đoán điềm, giải mộng, sấm vĩ, bùa chú trừ tà cầu an, phương tễ ... tương tự loại Tử Vi Trọn Đời ở ta.
-Trong bản chụp "chính thức" ấy có đoạn "nếu là người làm việc lành, mau chóng chép lại (văn bản này) phát tán khắp nơi, người giàu thì bỏ tiền ra để in, người nghèo thì chép tay để lưu truyền cho thiên hạ biết, nếu đã xem qua mà không chuyển cho người khác xem, cả nhà lớn bé đều mang tội, nếu phá giải được các việc, là bậc Thần Tiên tiêu dao khoái lạc ... !!!", bây giờ vẫn có loại này trên mạng, với hình thức khuyên phải "chia sẻ" nếu không "Trời sẽ sập"!. Một mặt dùng lời lẽ mơ hồ để hù dọa về "ngày tận thế", một mặt gợi ý cách tìm lối thoát, thủ đoạn thường thấy từ xưa tới nay của các bậc "đạo sư vĩ đại", mục đích nhỏ nhất là bán được giấy, hơn tí nữa là bán được sách và nhiều cái khác nữa. Qua đó có thể thấy độ "đáng tin" của văn bản Lưu Bá Ôn Số Kiếp Bi Ký "gốc". Tất cả các trang, khi đăng tải dưới dạng text, đều loại bỏ đoạn này, đều đó cho thấy độ "khả tín" của họ.
Cái gọi là Thôi Bi Đồ nghĩa là gì? Cái gì dùng để "Thôi Bi"? "Đồ" của nó trông ra sao? Có "vừa nhọ vừa thâm" không? Và nhiều câu hỏi khác chúng tôi vẫn chưa lý giải được.
Xin trình bày với anh một vài suy nghĩ của chúng tôi, qua việc xem xét bi ký của họ Lưu.
Sắp tới ngày Ông Công lên Trời, xin chúc anh và gia đình sang năm mới bình an và hạnh phúc!
Chào anh,
Trả lờiXóaRất cảm ơn cho biết nhiều thông tin về bản này. Tôi đã nghĩ anh rất chuyên môn trong các nguồn chữ Hán nên đã yêu cầu. Và xin chúc anh cùng gia đình một năm mới an khang và hạnh phúc.
P.S
(Tôi ở nước ngoài nên không có được không khí Tết như ở VN ngày xưa. Vợ cũng có làm mâm cơm, trái cây gọi là 'đưa ông Táo vể trời vào ngày 23 tháng Chạp hàng năm).