Thứ Hai, 12 tháng 12, 2016

Thôi Bối Đồ-Kim Thánh Thán chú

Thôi Bối Đồ

推背圖

金聖歎批註
(Tàng bản hoàng cung nhà Thanh)

唐臣袁天罡李湻風著有推背圖父老相傳迄未寓目壬戌之夏得一抄本展而讀之其經過之事若合符節其數耶其數之可知而不可知不可知而可知者耶玩其詞參其意胡運不長可立而待毌以天之驕子自處也
癸亥人日金喟識

… Đường thần Viên Thiên Cương, Lý Thuần Phong trước hữu Thôi Bối Đồ, phụ lão tương truyền hất vị ngụ mục. Nhâm Tuất chi Hạ đắc nhất sao bản, triển nhi độc chi. Kỳ kinh quá chi sự nhược hợp phù tiết kỳ số da. Kỳ số chi khả tri nhi bất khả tri, bất khả tri nhi khả tri giả da. Ngoạn kỳ từ tham kỳ ý, Hồ vận bất trường. Khả lập nhi đãi, vô dĩ Thiên chi kiêu tử, tự xử dã.
Quý Hợi Nhân nhật 
Kim Vị chí

Tạm dịch
… Hai viên quan triều Đường là Viên Thiên Cương, Lý Thuần Phong làm ra Thôi Bối Đồ, các bậc già cả vẫn nói với nhau mà chưa được nhìn thấy. Mùa Hè năm Nhâm Tuất được một bản sao, liền xem. Thấy việc đã qua ăn khớp với số vậy. Số có thể biết mà chẳng biết, chẳng biết mà có thể biết vậy. Xem lời nói, xét ý tứ, vận khí của người Hồ chẳng dài. Có thể đứng để chờ, không phải là đứa con kiêu căng của Trời, mà là tự lui lại vậy.
Ngày mùng 7 tháng Giêng năm Quý Hợi
Kim Vị ghi chép


Chú thích: năm Nhâm Tuất 1622, năm sau Quý Hợi 1623. Kim Thánh Thán sinh năm Mậu Thân 1608, lúc bấy giờ 16 tuổi mụ. 
第一象 甲子   乾下乾上  

讖曰

茫茫天地 不知所止

日月循環 周而復始

頌曰

自從盤古迄希夷 虎鬥龍爭事正奇

悟得循環真諦在 試於唐後論元機

聖歎曰此象主古今治亂相因如日月往來陰陽遞嬗即孔子百世可知之意 紅者為日白者為月有日月而後晝夜成有晝夜而後寒暑判有寒暑而後歷數定有歷數而後統系分有統系而後興亡見矣

Phiên âm

Đệ nhất tượng  Giáp Tý  Càn hạ Càn thượng  Càn

Sấm viết

mang mang Thiên Địa
bất tri sở chỉ
Nhật Nguyệt tuần hoàn
chu nhi phục thủy

Tụng viết:

tự tòng Bàn Cổ hất hy di
Hổ đấu Long tranh sự chính kỳ
ngộ đắc tuần hoàn chân đế tại
thí ư Đường hậu luận nguyên cơ

Thánh Thán viết : thử tượng chủ cổ kim trị loạn, tương nhân như Nhật Nguyệt vãng lai, Âm Dương đệ thiện, tức Khổng Tử bách thế khả tri chi ý. Hồng giả vi Nhật, Bạch giả vi Nguyệt, hữu Nhật Nguyệt nhi hậu Trú Dạ thành, hữu Trú Dạ nhi hậu Hàn Thử bạn, hữu Hàn Thử nhi hậu Lịch Số định, hữu Lịch Số nhi hậu Thống Hệ phân, hữu Thống Hệ nhi hậu Hưng Vong kiến hỹ.

Tạm dịch:

tượng thứ nhất  Giáp Tý  Càn dưới Càn trên  quẻ Càn

Sấm rằng:

Trời Đất mênh mang
không biết chỗ nào thì dừng
Mặt Trăng, Mặt Trời qua lại quay vòng
đủ một vòng lại trở lại ban đầu

Tụng rằng:

từ thuở Bàn Cổ đến thời đại không biết
Long tranh Hổ đấu việc rất lạ
biết được lẽ xoay vòng, thấy rõ sự thực
thử bàn về lẽ mầu nhiệm từ đời Đường trở về sau

Thánh Thán bàn rằng: Tượng này chủ về trị loạn xưa nay, tựa như việc Mặt Trời Mặt Trăng qua lại, Âm Dương thay đổi, cũng như ý tứ của Khổng Tử về việc biết được tình hình của trăm đời, màu Hồng là Mặt Trời, màu Trắng là Mặt Trăng, có Mặt Trời, Mặt Trăng mà sau có ban ngày ban đêm, có ban ngày ban đêm nên có khi nóng khi lạnh,  có khi nóng khi lạnh nên sau mới định lịch số, có lịch số sau mới phân loại dòng giống, có dòng giống sau mới thấy việc dấy lên hay sút kém vậy.

(đây là mào đầu của Thôi Bối Đồ, Thánh Thán là Kim Thánh Thán, nhà phê bình cuối Minh đầu Thanh, bản này thấy có lời bàn của Kim Thánh Thán.
Như hình vẽ hai vòng tròn móc vào nhau, có hai chữ Hồng Bạch, là phiếm chỉ Nhật Nguyệt Âm Dương gắn liền, thay đổi qua lại.

Sấm: mặc dù Trời Đất là vô cùng, nhưng vẫn có những cái ta có thể biết được quy luật, như quy luật vận hành của Mặt Trời Mặt Trăng.

Tụng: Bàn Cổ là một vị Thần từ thủa khai thiên lập địa. Chữ ‘hy di”, theo nghĩa trong Đạo Đức Kinh, là nhìn không thấy, nghe không thấy. Ý là từ lúc ban đầu theo truyền thuyết, cho đến lúc biết được theo khả năng, tất nhiên là vẫn còn chỗ “hy di” nữa, không thể suy luận “không biết” suy ra là “không có” được, điều này logic với câu “mang mang Thiên Địa, bất tri sở chỉ”. Nhiều văn bản thời Thanh dùng chữ      Nguyên thay cho chữ Huyền. Nguyên Cơ = Huyền Cơ.)  

第二象 乙丑  巽下乾上   

讖曰

纍纍碩果 莫明其數

一果一仁 即新即故

頌曰

萬物土中生 二九先成實

一統定中原 陰盛陽先竭

聖歎曰 一盤果子即李實也 其數二十一 自唐高祖至昭宣凡二十一主 二九者指唐祚二百八十九年陰盛者指武曌當國淫昏亂政幾危唐代 厥後開元之治雖足媲貞觀而貴妃召禍乘輿播遷女寵代興良娣繼之亦未始非陰盛之象  


Phiên âm


Đệ nhị tượng  Ất Sửu  Tốn hạ Càn thượng   Cấu

Sấm viết:

lũy lũy thạc quả
mạc minh kỳ số
nhất quả nhất Nhân
tức tân tức cố

Tụng viết:

vạn vật Thổ trung sinh
Nhị Cửu tiên Thành Thực
nhất thống định Trung Nguyên
Âm thịnh Dương tiên kiệt

Thánh Thán viết: nhất bàn quả tử thị Lý thực dã, kỳ số nhị thập nhất, tự Đường Cao Tổ chí Chiêu Tuyên phàm nhị thập nhất chủ, Nhị Cửu giả chỉ Đường tộ nhị bách bát thập cửu niên, âm thịnh giả chỉ Vũ Chiếu đương quốc dâm hôn loạn chính, kỷ nguy Đường đại, quyết hậu Khai Nguyên chi trị, tuy túc bễ Trinh Quán nhi Quý Phi chiêu họa, thừa dư bá thiên, nữ sủng đại hung, lương đệ kế chi, diệc vị thủy phi âm thịnh chi tượng.

Tạm dịch:

Tượng thứ hai Tốn dưới Càn trên   quẻ Cấu

Sấm rằng:

chồng chất quả lớn
không rõ số mấy
mỗi quả một Hạt
bèn mới bèn cũ

Tụng rằng:

vạn vật do đất sinh ra
Hai Chín đơm trái trước
làm chủ Trung Nguyên
Âm dấy lên, Dương hết trước

Thánh Thán bàn rằng: một mâm trái cây, tức là trái Mận vậy, có 21 quả, từ Đường Cao Tổ đến Chiêu Tuyên gồm 21 đời vua, Hai Chín là chỉ triều đại nhà Đường kéo dài 289 năm từ 618-907. Âm thịnh là chỉ Vũ Chiếu làm vua, bừa bãi trong tình dục, rối loạn về chính trị, triều đại nhà Đường lâm nguy, về sau thời Khai Nguyên thịnh trị có thể so với thời Trinh Quán, xảy ra tai họa từ Quý Phi, phải lên xe chạy trốn. Đàn bà được nuông chiều nên dấy lên, tiếp theo là đám cung tần, đấy chẳng phải là Âm thịnh thì là gì?

(mâm quả Mận (Lý), chỉ họ vua Đường, chữ Nhân   = hạt, là dùng đồng âm với   Nhân=  người, quả thứ tư từ trên xuống không có núm, chỉ đời thứ tư là vua đàn bà. Đời Đường đàn bà dấy lên, nhiều chuyện trái khoáy, bố lấy vợ của con (Dương Ngọc Hoàn), con lấy vợ của bố (Vũ Tắc Thiên), con gái thử kiểm tra trước rồi dâng cho mẹ (Thái Bình Công Chúa) …. các chuyện của Vũ Tắc Thiên, Vi Hậu, Thái Bình Công Chúa, Dương Ngọc Hoàn …. Thành Thực  成實 = Kết Quả 結果 , ý là kết thúc, là lúc cuối.)   

 第三象 丙寅  艮下乾上  

讖曰

日月當空 照臨下土

撲朔迷離 不文亦武

頌曰

參遍空王色相空 一朝重入帝王宮

遺枝撥盡根猶在 喔喔晨雞孰是雄

聖歎曰此象主武曌當國廢中宗於房州殺唐宗室殆盡初武氏削髮為尼故有參遍空王之句高宗廢后王氏而立之故有喔喔晨雞孰是雄之兆

Phiên âm

Đệ tam tượng   Bính Dần  Cấn hạ Càn thượng   Độn

Nhật Nguyệt đương Không   
Chiếu lâm hạ thổ
phác sóc mê ly
bất văn diệc Vũ

Tụng viết:

tham biến Không Vương sắc tướng không
nhất triêu trùng nhập đế vương cung
di chi bát tận căn do tại
ác ác thần kê thục thị hùng

Thánh Thán viết: chủ Vũ Chiếu đương quốc phế Trung Tông ư Phòng châu, sát Đường tông thất đãi tận, sơ Vũ thị tước phát vi ni, cố hữu tham biến không vương chi cú, Cao Tông phế hậu Vương thị nhi lập chi, cố hữu ác ác thần kê thục thị hùng chi triệu.

Tạm dịch:

Tượng thứ ba  Bính Dần  Cấn dưới Càn trên   quẻ Độn

Sấm rằng:

Mặt Trời Mặt Trăng đang ở trên Không
Chiếu ánh sáng xuống dưới đất
mơ mơ hồ hồ
chẳng phải văn, lại là Vũ

Tụng rằng:

tham bái nhà Phật, sắc tướng đều là không
một sớm, lần nữa vào cung vua
bẻ sạch cành, gốc rễ vẫn còn
gà gáy buổi sáng, ai là anh hùng

Kim Thánh Thán bàn rằng: tượng này chỉ việc Vũ Chiếu làm vua, phế bỏ Trung Tông ở Phòng Châu, giết sạch tông thất nhà Đường, ban đầu họ Vũ cạo tóc làm ni cô, nên có câu “tham bái nhà Phật, sắc tướng đều là không”, Cao Tông phế bỏ Vương hoàng hậu, lập Vũ Chiếu làm hoàng hậu, đấy là điềm “gà gáy buổi sáng, ai là anh hùng”.

(tranh vẽ một người đàn bà đội mũ Bình Thiên, tay cầm đao múa Võ, chính là Vũ Tắc Thiên, mũ Bình Thiên là chỉ vua.
Chữ Nhật    Nguyệt    và Không  là chữ Chiếu   chữ này do Vũ Tắc Thiên tự chế ra, Đường Trinh Quán năm thứ 11-năm 637, Thái Tông tuyển cung nữ, thứ sử Kinh châu là Cái Văn Đạt tuyển được một mỹ nữ, tên là Vũ Mỵ Nương, Cái Văn Đạt đổi tên thành Vũ Chiếu武照 ,
với ý là “nhật nguyệt đương không, vạn phương chiếu lâm”, sau 武照 tự đặt ra chữ và lấy tên là 武曌, việc này còn tỏ rõ việc tự phụ của Vũ Tắc Thiên. Thái Tông sủng ái Vũ Chiếu, phong cho cha đẻ Vũ Chiếu chức Vũ Hộ Đô đốc,   Cái Văn Đạt được ban thưởng. Lúc bấy giờ có một quyển sách tên là “Bí ký”, ở trong sách này có câu “Đường triều tam thế chi hậu, tựu hội hữu nữ chủ Vũ vương, đại thế Đường triều thiên hạ”. Thái Tổ xem xét, hỏi ý kiến, đã di chiếu bãi chức Vũ Hộ Đô Đốc, bắt Vũ Chiếu cạo đầu làm ni cô ở chùa Cảm Nghiệp. Cao Tông khi còn là Thái Tử đã mê đắm Vũ Chiếu, sau khi lên ngôi đã cho vời Vũ Chiếu vào cung lần nữa. Sau khi Vương hoàng hậu bị phế truất, giam trong lãnh cung, có sinh được một người con trai, được Đỗ Hồi mang đến chỗ Giang Hạ Vương Lý Khai Phương, đấy là hoàng tử Lý Đán, sau lên ngôi là Duệ Tông. Võ Tắc Thiên nhiếp chính không buông rèm từ năm Ất Dậu-685.)

 第四象  丁卯  坤下乾上   

讖曰

飛者不飛 走者不走
振羽高岡 乃克有後

頌曰

威行青女實權奇 極目蕭條十八枝
賴有猴兒齊著力 已傾大樹仗扶持

聖嘆曰此象主狄仁傑薦張柬之等五人反周為唐武后嘗夢鸚鵡兩翼俱折狄仁傑曰武者陛下之姓也起二子則兩翼振矣五猴指張柬之等五人

Phiên âm

Đệ tứ tượng  Đinh Mão  Khôn hạ Càn thượng  Bĩ

phi giả bất phi
tẩu giả bất tẩu
chấn Vũ cao cương
nãi khắc hữu hậu

Tụng viết

uy hành thanh nữ thực quyền kỳ
cực mục tiêu điều thập bát chi
lại hữu Hầu nhi tề trước lực
dĩ khuynh đại thụ trượng phù trì

Thánh Thán viết: thử tượng Địch Nhân Kiệt tiến Trương Giản Chi đẳng ngũ nhân, phản Chu vị Đường. Vũ Hậu thường mộng Anh Vũ lưỡng dực câu chiết, Địch Nhân Kiệt viết: Vũ giả, bệ hạ chi tính dã, khởi nhị tử tắc lưỡng dực chấn hỹ. Ngũ hầu chỉ Trương Giản Chi đẳng ngũ nhân.

Tạm dịch

Tượng thứ tư  Đinh Mão  Khôn dưới Càn trên  quẻ Bĩ

Sấm rằng:

bay mà lại không bay
chạy lại là tự chạy
rũ Lông ở trên đồi cao
bèn được về sau

Tụng rằng:

Thanh nữ ra oai, thực là quyền lực lạ
xơ xác tột cùng 18 cành
nhờ có con Khỉ cùng giúp sức
Cây Lớn đã nghiêng được đỡ đần

Kim Thánh Thán bàn rằng: tượng này là chỉ việc Địch nhân Kiệt tiến cử năm người bọn Trương Giản Chi, vì nhà Đường mà chống lại nhà Chu. Vũ Hậu thường ngủ mơ thấy một con Vẹt, hai cánh bị gãy cả, Địch Nhân Kiệt nói: Vũ là họ của bệ hạ, việc của hai người con nên cánh bị chấn động vậy. Năm con khỉ là chỉ năm người bọn Trương Giản Chi.

(như tranh vẽ: chim Anh Vũ-Vẹt, là Vũ Chiếu, nên bay-vì có cánh-mà lại không bay. Năm con khỉ là bọn năm người: Trương Giản Chi, Kính Huy, Hoàn Ngạn Phạm, Thôi Huyền Vỹ, Viên Thứ Kỷ (袁恕己), Viên-Vượn và Hầu-Khỉ là tương tự nhau, có thể nói cách khác với Kim Thánh Thán, năm người bọn Viên Thứ Kỷ, sẽ ăn khớp hơn.
Câu thứ 3 của Sấm có chữ Vũ , đây là dùng đồng âm với Vũ .
Câu thứ 3 trong Tụng nhắc đến Hầu, tương tự hình vẽ. Đại thụ chỉ nhà Đường, nhờ bọn Viên Thứ Kỷ chống lại Vũ Hậu, lập lại nhà Đường)

第五象 戊辰  坤下 巽上

讖曰

楊花飛 
蜀道難
截斷竹簫方見日 
更無一史乃平安

頌曰

漁陽鼙鼓過潼關 
此日君王幸劍山
木易若逢山下鬼 
定於此處葬金環

聖嘆曰一馬鞍指安祿山一史書指史思明一婦人死臥地上乃貴妃死於馬嵬坡截斷竹蕭者肅宗即位而安史之亂平

Phiên âm

Đệ ngũ tượng  Mậu Thìn  Khôn hạ Tốn thượng  Quán

Sấm viết:

Dương hoa phi
Thục đạo nan
tiệt đoạn Trúc Tiêu phương kiến nhật
cánh vô nhất Sử nãi bình an

Tụng viết:

Ngư Dương bề cổ quá Đồng Quan
thử nhật quân vương hạnh Kiếm Sơn
Mộc Dịch nhược phùng Sơn hạ Quỷ
định vu thử xứ táng Kim Hoàn

Thánh Thán viết: nhất mã yên chỉ An Lộc Sơn, nhất Sử thư chỉ Sử Tư Minh, nhất phụ nhân tử ngọa địa thượng, nãi Quý Phi tử ư Mã Ngôi dịch. Tiệt đoạn Trúc Tiêu giả, Túc Tông tức vị nhi An Sử chi loạn bình.

Tạm dịch

Sấm rằng:

hoa cây Dương bay
đường vào Thục khó
cắt đứt cái Tiêu Trúc mới thấy Mặt Trời
không còn một Sử mới bình An

Tụng rằng:

(từ) Ngư Dương trống nhỏ qua Đồng Quan
hôm nay quân vương đến Kiếm Sơn
Cây Dời Đi nếu gặp Quỷ dưới Núi
chắc chắn nơi ấy chôn Vòng vàng

Kim Thánh Thán bàn rằng: một cái Yên ngựa là chỉ An Lộc Sơn, một bộ sách Sử là chỉ Sử Tư Minh, một người đàn bà nằm chết trên mặt đất, đây là Quý Phi chết ở nhà trạm Mã Ngôi, cắt đứt cái Tiêu Trúc là chỉ việc Túc Tông lên ngôi, dẹp được loạn An, Sử.

( trong hình vẽ: cái Yên ngựa đồng âm với chữ An , chỉ An Lộc Sơn, An = Yên, bộ sách Sử chỉ Sử Tư Minh, một người đàn bà nằm chết trên mặt đất, đây là Quý Phi chết ở nhà trạm Mã Ngôi, nay thuộc Hưng Bình, Thiểm Tây.

Sấm:
Câu 1:  chỉ Dương Quý Phi bị ép chết
Câu 2:  chỉ việc Huyền Tông chạy vào Thục, rất khốn khổ
Câu 3: chữ Tiêu  mà bỏ đi Trúc  trên đầu là chữ Túc chỉ việc Túc Tông tự lên ngôi ở Linh Vũ, nay là tây nam Ngô Trung, Ninh Hạ.
Câu 4: dẹp yên được An, Sử

Tụng:
Câu 1: là chỉ An Lộc Sơn dấy binh ở Ngư Dương, đánh chiếm Đồng Quan.
Câu 2: Huyền Tông dẫn theo triều đình chạy vào Thục, đến Kiếm Sơn.
Câu 3: chữ Mộc   với chữ Dịch   là chữ Dương  chỉ Dương Thái Chân, chữ Quỷ  ở dưới chữ Sơn  là chữ Ngôi  chỉ gò Mã Ngôi.
Câu 4: Kim Hoàn tương tự Ngọc Hoàn, một tên của Dương Quý Phi.


Lý Long Cơ lên ngôi, đầu đời sáng suốt, về sau thành hôn quân. Lấy Dương Ngọc Hoàn là vợ của con trai, hoàng tử Lý Mạo. Lý Mạo (720-771), được phong là Thọ Vương, năm 733 lấy Dương Ngọc Hoàn (719-756) làm vợ. Đến năm 740, Đường Minh Hoàng sau khi thấy mặt con dâu, si mê không thể dứt, muốn đưa con dâu vào cung cho thỏa lòng, theo kế của Cao Lực Sỹ, cho Dương Ngọc Hoàn xuất gia thành đạo cô, đạo hiệu là Thái Chân, vào cung giúp bố chồng “tụng kinh”. Hiện có nhiều ý kiến cho rằng, khi Ngọc Hoàn vào cung, Lý Mạo còn bé (20 tuổi), “chưa làm ăn gì”!!! An Lộc Sơn say mê Ngọc Hoàn, nhận Ngọc Hoàn là “mẹ nuôi”, và lại thích mẹ nuôi “ru cho dễ ngủ”. Tượng thứ 5 chỉ về giai đoạn loạn An Lộc Sơn.)

 第六象 已巳  坤下艮上  

讖曰
非都是都 非皇是皇
陰霾既去 日月復光

頌曰
大幟巍巍樹兩京 輦輿今日又東行
乾坤再造人民樂 一二年來見太平

聖嘆曰此象主明皇還西京. 至德二載九月廣平王俶郭子儀收復西京十月收復東京安史之亂盡弭十二月迎上皇還西京故云再造

Phiên âm

Đệ lục tượng  Kỷ Tỵ  Khôn hạ Cấn thượng  Bác

Sấm viết:

phi Đô thị Đô
phi Hoàng thị Hoàng
âm mai ký khứ
nhật nguyệt phục quang

tụng viết:

đại xí nguy nguy thụ lưỡng kinh
liễn dư kim nhật hựu Đông hành
Càn Khôn tái tạo nhân dân lạc
nhất nhị niên lai kiến thái bình

Thánh Thán viết: thử tượng chỉ Minh Hoàng hoàn Tây Kinh. Chí Đức nhị tải cửu nguyệt, Quảng Bình Vương Tiêu Quách Tử Nghi thu phục Tây Kinh, thập nguyệt thu phục Đông Kinh, An Sử chi loạn tận nhĩ, thập nhị nguyệt nghênh thượng hoàng hoàn Tây Kinh, cố vân tái tạo.

Tạm dịch

Tượng thứ sáu  Kỷ Tỵ   Khôn dưới Cấn trên   quẻ Bác

Sấm rằng:

không phải kinh đô mà lại là kinh đô
không phải vua mà lại là vua
bụi mù tan đi hết
mặt trời, mặt trăng lại sáng tỏ

Tụng rằng:

cờ xí dựng cao vòi vọi ở hai kinh đô
xe cộ hôm nay lại đi về hướng Đông
Trời Đất gây dựng lại, nhân dân vui vẻ
một hai năm tới thấy thái bình

Kim Thánh Thán bàn rằng: tượng này chủ việc Minh Hoàng trở lại Tây Kinh. Tháng 9 năm thứ 2 niên hiệu Chí Đức, Quảng Bình Vương Tiêu Quách Tử Nghi lấy lại được Tây Kinh, tháng 10 lấy lại Đông Kinh, quét sạch loạn An Sử, tháng 12 đón thượng hoàng về Tây Kinh, vậy nên nói rằng: gây dựng lại.

(hình vẽ: chỉ việc Huyền Tông quay về Trường An, theo phương vị của bản đồ Tàu thời trước, trên Nam, dưới Bắc, trái Đông, phải Tây. Sau khi chạy vào Thục là phía Tây, giờ quay về Trường An là phía Đông.

Sấm:
Câu 1:  chỉ Linh Vũ, nơi Túc Tông tự lên ngôi.
Câu 2: Túc Tông tự lên ngôi trong khi Huyền Tông chưa thoái vị.

Tụng:
Câu 1: hai kinh đô, Tây Kinh Trường An, Đông Kinh Lạc Dương.

Tượng này chỉ việc dẹp yên loạn An Sử.)

 第七象  庚午   震下乾上   無妄  

讖曰
旌節滿我目 山川跼我足
破關客乍來 陡令中原哭

頌曰
螻蟻從來足潰隄 六宮深鎖夢全非
重門金鼓含兵氣 小草滋生土口啼

聖嘆曰此象主藩鎮跋扈及吐蕃入寇中原

Phiên âm

Đệ thất tượng  Canh Ngọ   Chấn hạ Càn thượng  Vô Vọng

Sấm viết

Tinh Tiết mãn ngã mục
sơn xuyên cục ngã túc
phá quan khách sạ lai
đẩu lệnh Trung Nguyên khốc

Tụng viết:

Lũ Nghị tùng lai túc hội đê
lục cung thâm tỏa mộng toàn phi
trùng môn kim cổ hàm binh khí
Tiểu Thảo tư sinh Thổ Khẩu đề

Thánh Thán viết: thử tượng chỉ phiên trấn bạt hỗ, cập Thổ Phiên nhập khấu Trung Nguyên.

Tạm dịch

Sấm rằng:

cờ Tinh đầy mắt ta
núi sông trói buộc chân ta
phá cửa quan ải khách chợt đến
nổi trội lên việc khóc lóc ở Trung Nguyên

Tụng rằng:

Kiến Mối tụ tập lại đủ làm vỡ đê
sáu cung khóa chặt mộng bay đi hết
lớp lớp cửa, chuông trống lại chứa vũ khí
Cỏ nhỏ sinh ra, Miệng Đất khóc

Kim Thánh Thán bàn rằng: tượng này chỉ phiên trấn ngang ngược, cùng việc Thổ Phiên vào cướp Trung Nguyên.

(hình vẽ: người Hồ

Sấm:
Câu 1: Tinh Tiết là một loại cờ có cắm lông chim của người Hồ, người Hán gọi các tộc người ở Tây Bắc là Hồ.
Câu 3: Thổ Phiên (bây giờ là Tây Tạng-hiện hay phiên âm là Thổ Phồn) vào chiếm cướp Trường An năm 763.

Tụng:
Câu 1: Kiến Mối chỉ việc các Phiên Trấn không theo lệnh của triều đình, sau loạn An Sử, đặt ra 40 Tiết Độ Sứ. Vỡ đê chỉ việc triều đình sụp đổ.
Câu 2: hoạn quan lộng hành phế lập
Câu 3: nom có vẻ vững chắc, nhưng hỏng từ trong hỏng ra
Câu 4: tiểu Thảo chỉ chữ Phiên  có thảo đầu, chữ Thổ   và chữ Khẩu hợp thành chữ Thổ  trong Thổ Phiên  吐蕃,  chữ Phiên còn viết là  có thêm chấm thủy.
Đây là giai đoạn sau loạn An Sử đến Đường Đại Tông)

 第八象  辛未  坤下離上           

讖曰
攙槍血中土 破賊還為賊
朵朵李花飛 帝曰遷大吉

頌曰
天子蒙塵馬首東 居然三傑踞關中
孤軍一駐安社稷 內外能收手臂功

聖嘆曰此象主建中之亂,三人者李希烈、朱泚、李懷光也。李懷光以破朱泚功,為盧杞所忌,遂反,故曰破賊還為賊。三人先後犯闕,德宗乘輿播遷,賴李晟以孤軍收復京城,而社稷重安矣。」

Phiên âm

Đệ bát tượng  Tân Mùi  Khôn hạ Ly thượng   Tấn

Sấm viết:
Sàm Sanh huyết Trung Nguyên
phá tặc hoàn vi tặc
đóa đóa Lý hoa phi
Đế viết thiên đại cát

Tụng viết:

Thiên Tử mông trần mã thủ đông
Cư nhiên tam kiệt cứ khuyết trung
Cô quân nhất trú an xã tắc
Nội ngoại năng thu thủ tý công

Thánh Thán viết: thử tượng chỉ Kiến Trung chi loạn, tam nhân giả Lý Hy Liệt, Chu Thử, Lý Hoài Quang dã, Lý Hoài Quang dĩ phá Chu Thử công, vị Lô Kỷ sở kỵ toại phản, cố viết phá tặc hoàn vi tặc, tam nhân tiên hậu phạm khuyết, Đức Tông thừa dư bá thiên, lại Lý Thịnh dĩ cô quân thu phục kinh thành nhi xã tắc trùng an hỹ.

Tạm dịch

Tượng thứ 8  Tân Mùi   Khôn dưới Ly trên   quẻ Tấn

Sấm rằng:

Sao Chổi (rưới) máu Trung Nguyên
dẹp giặc lại trở thành giặc
các bông hoa Mận bay
vua nói dời đi là tốt nhất

tụng rằng:

vua ở trong bụi trần muốn quay trở về (kinh thành)
rõ ràng Tam Kiệt ngồi trong cung khuyết
quân lẻ loi giúp non sông yên ổn
công lao giúp đỡ lấy lại cả trong lẫn ngoài

Kim Thánh Thán bàn rằng: tượng này là chỉ việc loạn ở những năm niên hiệu Kiến Trung, ba người là Lý Hy Liệt, Chu Thử, Lý Hoài Quang. Lý Hoài Quang có công dẹp loạn Chu Thử, vì Lô Kỷ ganh gét nên trở mặt làm phản, vậy nên viết “dẹp giặc lại trở thành giặc”. Ba người  Lý Hy Liệt, Chu Thử, Lý Hoài Quang, trước sau đánh chiếm cung vua, Đức Tông phải lên xe chạy chốn. nhờ Lý Thịnh một mình dẫn quân lấy lại kinh thành, non song lần nữa được yên ổn vậy.

(hình vẽ ba võ tướng tức là Lý Hy Liệt, Chu Thử, Lý Hoài Quang. Có thuyết cho rằng chiến tranh là do Sao Chổi)

 第九象  壬申   乾下離上   大有

讖曰

非白非黑 草頭人出
借得一枝 滿天飛血

頌曰

萬人頭上起英雄 
血染河山日色紅
一樹李花都慘淡 
可憐巢覆亦成空

聖嘆曰此象主黃巢作亂. 唐祚至昭宗朱溫弒之以自立改國號梁溫,為黃巢舊黨故曰覆巢亦成空

Phiên âm

Đệ cửu Tượng  Nhâm Thân  Kiền hạ Ly thượng    Đại Hữu

Sấm viết:

phi bạch phi hắc
Thảo đầu Nhân xuất
tá đắc nhất chi
mãn thiên phi huyết

Tụng viết:

Vạn Nhân đầu thượng khởi anh hùng
huyết nhiễm hà sơn nhật sắc Hồng
nhất thụ Lý hoa đô thảm đạm
khả lân Sào phúc diệc thành không

Tạm dịch

Sấm rằng:

không trắng không đen
đầu Cỏ Người ra
mượn được một cành
máu bay đầy trời 

Tụng rằng:

trên đầu Vạn Người xuất hiện anh hùng
máu nhuốm non sông mặt trời Hồng
một cây hoa Mận đều buồn bã nhạt nhẽo
đáng thương Tổ (chim) bị lật úp, lại thành không
Kim Thánh Thán bàn rằng: tượng này chỉ Hoàng Sào làm loạn. Nhà Đường đến thời Chiêu Tông, Chu Ôn giết vua, tự lên ngôi, đổi quốc hiệu thành Lương Ôn. Vì là đồng đảng trước đây của Hoàng Sào nên mới viết “Tổ lật úp lại thành không”

(hình vẽ cây cổ thụ (Lý-Mận) mục ruỗng xiêu vẹo như sắp đổ, nhiều cành to cụt, dưới gốc xác chết ngổn ngang, đấy là hình ảnh nhà Đường lúc cuối.
Sấm
Câu 1-2: Không trắng không đen, là chỉ màu sắc, có màu vàng-Hoàng và màu xanh-Lam  là chữ có chữ Thảo   ở trên đầu, mà lại có chữ Nhân   thì là chữ Hoàng, chữ Nhân   ở dưới chân.
Câu 3: mượn được một cành, là phiếm chỉ chữ Sào .
Tụng
Câu 1: chữ Vạn lấy phần đầu gồm chữ Thảo chữ Điền , bỏ phần dưới thay bằng chữ Nhân  thành ra chữ Hoàng.
Câu 2: Hồng là màu đỏ, giống với Chu   cũng là màu đỏ, chỉ Chu Ôn.
Câu 3: chỉ họ Lý nhà Đường đã suy kiệt không cách gì vực dậy.
Câu 4: cho dù dẹp được Hoàng Sào, nhưng nhà Đường cũng vẫn sụp đổ.)

 第十象  癸酉  坎下坎上  

讖曰
蕩蕩中原 莫禦八牛
泅水不滌 有血無頭

頌曰
一後二主盡升遐 四海茫茫總一家
不但我生還殺我 回頭還有李兒花

聖嘆曰此象主朱溫弒何皇后昭宣昭宗而自立所謂一後二主也未幾為次子友珪所弒是頌中第三句意李克用之子存勗代父復仇百戰滅梁,改稱後唐是頌中第四句意

Phiên âm

Đệ thập tượng  Quý Dậu   Khảm hạ Khảm thượng  Khảm

Sấm viết:

đãng đãng Trung Nguyên
mạc ngự Bát Ngưu
Tù thủy bất địch
hữu Huyết vô đầu

Tụng viết

Nhất Hậu Nhị Chủ tận thăng hà
tứ hải mang mang tổng nhất gia
bất đãn ngã sinh hoàn sát ngã
hồi đầu hoàn hữu Lý nhi hoa

Thánh Thán viết: thử tượng chủ Chu Ôn thí Hà Hoàng Hậu, Chiêu Tuyên, Chiêu Tông nhi tự lập, sở vị Nhất Hậu Nhị Chủ dã, vị kỷ thứ tử Chu Khuê sở thí, thị tụng trung đệ tam cú ý, Lý Khắc Dụng chi tử Tồn Úc, đại phụ phục cừu, bách chiến diệt Lương, cải xưng Hậu Đường, thị tụng trung đệ tứ cú ý.

Tạm dịch

 Tượng thứ 10  Quý Dậu   Khảm dưới Khảm trên  quẻ Khảm

Sấm rằng:

mênh mang Trung Nguyên
không ngăn được Tám con Trâu
Bơi lội mà chẳng gột rửa
có Máu mà không có đầu

Tụng rằng:

một Hoàng Hậu, hai Vua đi xa hết
bốn bể mênh mang đều một nhà
chẳng những ta sinh ra, (mà) trở lại giết ta
quay đầu lại có hoa cây Mận

Kim Thánh Thán bàn rằng: tượng này chỉ việc Chu Ôn giết Hà Hoàng Hậu, Chiêu Tuyên, Chiêu Tông, rồi tự xưng làm Vua, vậy nên nói một Hoàng Hậu hai Vua vậy, tiếp theo Chu Ôn bị con thứ là Hữu Khuê giết, đấy là ý của câu tụng thứ ba, con của Lý Khắc Dụng là Tồn Úc, thay cha báo thù, đánh trăm trận diệt nhà Lương, dựng lên nhà Hậu Đường, đấy là ý câu tụng thứ tư.

(hình vẽ: một dòng sông chảy ra từ khe núi đến một vực nước, đấy là chỗ có thể bơi lội, tắm rửa, tức là Tù Thủy.

Sấm
Câu 2: chữ Bát hợp với chữ Ngưu là chữ Chu 
Câu 3: nói là Bơi Lội-Tù thủy, nhưng không phải là chuyện tắm rửa.
Câu 4: chữ Huyết mà không có đầu là chữ Mãnh ,  chữ Tù  hợp với chữ Mãnh    là chữ Ôn   , chỉ Chu Ôn.

Tụng
Câu 1: Chu Ôn giết giết Hà Hoàng Hậu, Chiêu Tuyên, Chiêu Tông.
Câu 2: thành lập nhà Hậu Lương
Câu 3: Chu Ôn là người thích ngủ với nhiều đàn bà, đặc biệt thích ngủ với con dâu, ông ta thường sai con trai đi ra ngoài kinh thành, rồi bảo con dâu đến ngủ với bố chồng. Mấy cô con dâu được cái có hiếu, cung phụng bố chồng hết lòng. Trong số đó họ Trương , vợ của Chu Hữu Khuê, được bố chồng ngày ngày gọi vào cung giao hoan. Chu Ôn có người con nuôi là Chu Hữu Văn, ông ta yêu quý Chu Hữu Văn hơn con đẻ, khi dời đô về Lạc Dương, Chu Ôn đã giao Biện Lương (Khai Phong) cho Chu Hữu Văn, đồng thời triệu Vương thị là vợ của Chu Hữu Văn vào cung đấm lưng cho bố chồng dễ ngủ, vì sức khỏe của bố dạo này kém. Khi bệnh tình của Chu Ôn chuyển nặng, biết khó qua khỏi, bèn sai Vương thị mang mật chỉ đến Biện Lương triệu Chu Hữu Văn vào cung để truyền ngôi, nhưng việc này bọn thị nữ đã báo cho Trương thị, Trương thị bèn bảo với chồng, cùng lúc Chu Hữu Khuê nhận được chỉ dụ phải dời khỏi Lạc Dương ngay lập tức, mặc dù là đang nửa đêm. Chu Hữu Khuê bàn mưu với Thống quân Hàn Kính, đêm khuya dẫn quân vào cung cấm giết chết cha đẻ là Chu Ôn.
Câu 4: chỉ Lý Tồn Úc (Húc) con của Lý Khắc Dụng.)

 第十一象 申戍   兌下坎上      

讖曰
五人同卜 非祿非福
兼而言之 喜怒哀樂

頌曰
龍蛇相鬥三十年 一日同光直上天
上得天堂好游戲 東兵百萬入秦川

聖嘆曰此象主伶人郭從謙作亂,唐主為流矢所中

Phiên âm

Đệ thập nhất tượng   Giáp Tuất   Đoài hạ Khảm thượng Tiết

Sấm viết
Ngũ Nhân đồng Bốc
phi lộc phi phúc
Kiêm nhi Ngôn chi
hỷ nộ ai lạc

Tụng viết

long xà tương đấu tam thập niên
Nhất Nhật Đồng Quang trực thăng thiên
thượng đắc thiên đường hảo du hý
đông binh bát vạn nhập Tần Xuyên

Thánh Thán viết thử tượng chỉ linh nhân Quách Tòng Khiêm tác loạn Đường chủ vị lưu thỉ sở trúng.

Tạm dịch

Tượng thứ 11 Giáp Tuất  Đoài dưới Khảm trên   quẻ Tiết

Sấm rằng:

Năm Người cùng Bói
không lộc không phúc
gồm lại mà nói
mừng giận buồn vui

Tụng rằng:

rồng rắn đánh nhau 30 năm
Một Ngày cùng ánh sáng lên thẳng Trời
lên được thiên đường tha hồ vui chơi
tám vạn lính phía Đông vào Tần Xuyên

Kim Thánh Thán bàn rằng: tượng này chủ về việc con hát Quách Tòng Khiêm làm loạn, vua Đường bị trúng tên,

(hình vẽ là chỉ Hậu Đường Trang Tông trúng tên mà chết.

Sấm
Câu 1: năm chữ Nhâncùng với chữ Bốclà chữ Tòng
Câu 2: chữ Kiêm  với chữ Ngôn  là chữ Khiêm . Chỉ Quách Tòng Khiêm 郭從謙 .
Câu 3: không lộc cũng không phúc, ắt là tai họa.
Câu 4: chỉ đời người vô thường, cũng là chỉ những diễn xuất của phường chèo trên sân khấu.

Tụng
Câu 2: chỉ ngày Giáp Tý tháng 4 năm Đồng Quang thứ 4

Hậu Đường Trang Tông Lý Tồn Úc (885-926), con trai của Lý Khắc Dụng, tuổi trẻ anh hùng. Sau sủng ái Lưu thị cùng bọn con hát, hại các tướng lĩnh. Giao binh quyền cho con hát là Quách Tòng Khiêm, khi Quách làm loạn, Trang Tông bị trúng tên, mất mạng)

 第十二象 乙亥 震下坎上        

讖曰
塊然一石 謂他人父
統二八州 已非唐土

頌曰
反兆先多口 出入皆無主
繫鈴自解鈴 父亡子亦死

聖嘆此象主石敬塘求救于契丹。唐主遣張敬達討石敬塘,敬塘不得已,求救於契丹,事之以父禮,賄以幽薊十六州。晉帝之立國契丹功也,然卒以契丹亡,故有繫鈴解鈴之兆

Phiên âm

Đệ thập nhị tượng  Ất Hợi  Chấn hạ Khảm thượng Truân

Sấm viết

khối nhiên nhất Thạch
vị tha nhân phụ
thống nhị bát châu
dĩ phi Đường thổ

Tụng viết

phản triệu tiên đa khẩu
xuất nhập giai vô chủ
hệ linh tự giải linh
phụ vong tử diệc tử

Thánh Thán viết: thử tượng chủ Thạch Kính Đường cầu cứu vu Khiết Đan. Đường chủ khiến Trương Kính Đạt đánh dẹp Thạch Kính Đường, Thạch Kính Đường bất đắc dĩ cầu cứu Khiết Đan, sự chi phụ lễ, hối dĩ U, Kế thập lục châu. Tấn đế chi lập quốc Khiết Đan công dã.

Tạm dịch

Tượng thứ 12  Ất Hợi  Chấn dưới Khảm trên  quẻ Truân

Sấm rằng:

lù lù một hòn Đá
gọi người khác bằng cha
suốt cả Hai Tám châu
không thuộc nhà Đường nữa

Tụng rằng:

ngược lại với điềm báo trước tiên là lắm mồm
ra vào đều không có chủ
đeo vòng tự cởi vòng
cha mất con cũng chết

Kim Thánh Thán bàn rằng: tượng này chủ việc Thạch Kính Đường cầu cứu Khiết Đan, vua Đường sai Trương Kính Đạt đánh dẹp Thạch Kính Đường, Thạch Kính Đường chẳng làm sao được bèn cầu cứu Khiết Đan, lấy lễ con đối với cha để hầu hạ, dâng U, Kế 16 châu. Vua Tấn lập quốc là do công của Khiết Đan vậy.

(hình vẽ: hòn đá là chỉ Thạch Kính Đường, người đứng ăn mặc kiểu người Hồ chỉ vua Khiết Đan.

Sấm
Câu 1: chỉ họ Thạch
Câu 2: chỉ việc gọi Da Luật Đức Quang là bố.
Câu 3: 2 x 8 = 16, chỉ các châu cắt cho Khiết Đan, gồm U, Kế, Doanh, Mạc, Trác, Đàn, Tân, Thuận, Vỉ, Nho, Vũ, Vân, Hoàn, Sóc, Uất, Yến.

Tụng
Câu 1: chữ Thạch và chữ Đường đều có chữ Khẩu.
Câu 2: người Khiết Đan ra vào Trung nguyên như chỗ không người.
Câu 3,4: Khiết Đan sụp đổ, họ Thạch cũng xong đời.)

 第十三象 丙子  離下坎上 既濟

讖曰:
漢水竭    雀高飛
飛来飛去何所止    高山不及城郭低

頌曰
百个雀兒水上飛     九十九個過山西
惟有一個踏破足    高棲獨自理毛衣
聖嘆曰此象主周主郭威奪漢自立。郭威少賤,世稱之曰郭雀兒

Phiên âm

Đệ thập tam tượng  Bính Tý  Ly hạ Khảm thượng  Ký Tế

Sấm viết

Hán thủy kiệt
Tước cao phi
phi lai phi khứ hà sở chỉ
cao sơn bất cập thành Quách đê

Tụng viết

bách cá Tước Nhi thủy thượng phi
cửu thập cửu cá quá Sơn Tây
duy hữu nhất cá đạp phá túc
cao thê độc tự lý mao y

Thánh Thán viết: thử tượng chủ Chu chủ Quách Uy đoạt Hán tự lập, Quách Uy thiếu tiện thế xưng chi Quách Tước Nhi

Tạm dịch

Tượng thứ 13  Bính Tý  Ly dưới Khảm trên  quẻ Ký Tế

Sấm rằng:

Hán nước cạn
Chim Sẻ bay cao
bay đi bay lại dừng chỗ nào
núi cao chẳng tới, thành Quách thấp

Tụng rằng:

trăm con Chim sẻ bay trên nước
chin mươi chin con qua Sơn Tây
chỉ có một con đạp phá chân
thang cao một mình mặc áo lông

Kim Thánh Thán bàn rằng: tượng này chủ việc Chu chúa Quách Uy chiếm đoạt nhà Hán, tự lập thành vua. Quách Uy khi lúc trẻ còn hèn kém, đời gọi là Quách Tước Nhi.

(hình vẽ: con chim Sẻ đứng trên mặt thành là Quách Uy

Sấm
Câu 1: chỉ Hậu Hán Lưu Trí Viễn diệt vong
Câu 2,4: có chữ Tước và chữ Quách chỉ Quách Uy

Tụng
Hậu Chu Quách Uy thiết lập chính quyền ở Sơn Tây,)

 第十四象  丁丑   離下兌上  

讖曰
李樹得根芽 石榴漫放花
枯木逢春只一瞬 讓他天下競榮華

頌曰
金木水火土已終 十三童子五王公
英明重見太平日 五十三參運不通

聖嘆曰此象主周世宗承郭威受命為五代之終,世宗姓柴名榮,英明武斷,勤於為治,惜功業未竟而殂。五代共五十三年,凡八姓十三主,頌意顯然

Phiên âm

Đệ thập tứ tượng  Đinh Sửu  Ly hạ Đoài thượng  Cách

Sấm viết:

Lý thụ đắc căn nha
Thạch Lựu mạn phóng hoa
Khô Mộc phùng xuân chỉ nhất thuấn
nhượng tha thiên hạ cánh Vinh hoa

Tụng viết:

Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ dĩ chung
Thập Tam đồng tử Ngũ vương công
anh minh trùng kiến thái bình nhật
Ngũ Thập Tam tham vận bất thông

Tạm dịch:

Sấm rằng:

Cây Mận mọc mầm ra
Cây Thạch Lựu nở đầy hoa
Củi Khô gặp xuân chỉ trong chớp mắt
nhường lại nước trời tự Vinh hoa

Tụng rằng:

Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ đã xong
Mười Ba đồng tử Năm vương công
anh minh lại thấy ngày thái bình
Năm Mươi Ba xem thấy vận chẳng thông

Kim Thánh Thán bàn rằng: tượng này chủ việc Chu Thế Tông được Quách Uy truyền ngôi, thời kỳ Ngũ Đại đến lúc cuối, Thế Tông là người anh minh, quả quyết, chăm lo việc sửa trị, tiếc rằng việc đang dở dang thì chết. Ngũ Đại trải 53 năm, 8 họ, 13 vua.

(hình vẽ: bó củi khô quây quanh một cái cây nhỏ èo uột, chỉ Sài Vinh yểu mệnh.

Sấm
Câu 1: chỉ họ Lý nhà Hậu Đường
Câu 2: chỉ họ Thạch nhà Tấn, họ Lưu nhà Hậu Hán
Câu 3: Khô Mộc là chỉ củi, Sài, chớp mắt ý ngắn ngủi
Câu 4: có chữ Vinh, nhường thiên hạ cho người khác

Tụng
Câu 1: chỉ việc kết thúc thời kỳ Ngũ Đại
Câu 2,3,4: chỉ thời Ngũ Đại trải 53 năm, gồm 13 vua.)

 第十五象  戊寅 離下震上       

讖曰
天有日月 地有山川
海內紛紛 父後子前

頌曰
戰事中原迄未休 幾人高枕臥金戈
寰中自有真天子 掃盡群妖見日頭

聖嘆曰此象主五代末造割據者星羅棋布惟吳越錢氏錢鏐四世稍圖治安南唐李氏,李昇三世略知文物餘悉淫亂昏虐大祖崛起拯民水火太袓小名香孩兒手執帚者掃除群雄也。

Phiên âm

Đệ thập ngũ tượng Mậu Dần  Ly hạ Chấn thượng  Phong

Sấm viết

Thiên hữu nhật nguyệt
Địa hữu sơn xuyên
hải nội phân phân
phụ hậu tử tiền

Tụng viết

chiến sự trung nguyên hất vị hưu
kỷ nhân cao chẩm ngọa kim qua
hoàn trung tự hữu chân thiên tử
tảo tận quần yêu kiến nhật đầu

Thánh Thán viết: thử tượng chủ Ngũ Đại mạt tạo, cát cứ giả tinh la kỳ bố, duy Ngô Việt Tiền thị, Tiền Lưu tứ thế, tiêu đồ trị an, Nam Đường Lý thị, Lý Biện tam thế, lược tri văn vật, dư tất dâm loạn hôn ngược; Thái Tổ quật khởi, chửng dân thủy hỏa, Thái Tổ tiểu danh Hương Hài Nhi, thủ chấp chửu giả, tảo trừ quần hùng dã.

Tạm dịch

Tượng thứ 15  Mậu Dần  Ly dưới Chấn trên  quẻ Phong

Sấm rằng:

Trời có mặt trời mặt trăng
Đất có núi sông
trong nước rối ren
cha sau con trước

Tụng rằng:

việc đánh nhau ở Trung Nguyên đến lúc nào dừng
mấy người ngủ yên (khi) nằm trên cái qua vàng
trong cõi hẳn có vua chân chính
quét sạch lũ yêu ma nhìn thấy mặt trời

Kim Thánh Thán bàn rằng: tượng này chủ việc cuối đời Ngũ Đại, chia năm sẻ bảy, chỉ có họ Tiền ở Ngô Việt, Tiền Lưu được 4 đời, khá yên ổn, Nam Đường họ Lý, Lý Biện được 3 đời, có thể nói là văn vật, còn lại là dâm loạn bạo ngược. Tống Thái Tổ dấy lên, cứu dân khỏi nạn lớn, Thái Tổ lúc bé gọi là Hương Hài Nhi, (như hình vẽ đứa bé) tay cầm chổi, quét sạch quần hùng vậy.

(hình vẽ: chỉ Tống Thái Tổ dẹp loạn

Sấm
Câu 1: mặt trời, mặt trăng chỉ sự sáng sủa, Tống Thái Tổ tên là Triệu Khuông Dẫn 趙匡胤, tự Nguyên Lãng 元朗, Lãng nghĩa là sáng.

Tụng
Câu 2: chỉ họ Tiền, họ Lý.
Câu 4: chỉ xuất hiện chân chúa.)

 第十六象 已卯 離下坤上 明夷

讖曰
天一生水 姿稟聖武
順天應人 無今無古

頌曰
納土姓錢並姓李 其餘相次朝天子
天將一統付真人 不殺人民更全嗣

聖嘆曰此象主宋太袓受禪汴都,天下大定,錢李二氏相率歸化,此一治也

Phiên âm

Đệ thập lục tượng  Kỷ Mão  Ly hạ Khôn thượng  Minh Di

Sấm viết

Thiên nhất sinh Thủy
tư bẩm Thánh vũ
thuận Thiên ứng nhân
vô kim vô cổ

Tụng viết

Nạp Thổ tính Tiền dữ tính Lý
kỳ dư tương thứ triều thiên tử
Thiên tương nhất thống phó chân nhân
bất sát nhân dân cánh toàn tự

Thánh Thán viết: thử tượng chủ Tống Thái Tổ thụ thiện Biện đô, thiên hạ đại định, Tiền, Lý nhị tính tương suất quy hóa, thử nhất trị dã.

Tạm dịch

Tượng thứ 16  Kỷ Mão  Ly dưới Khôn trên  quẻ Minh Di

Sấm rằng:

Trời (lấy) số 1 sinh ra nước
vốn bẩm thụ khả năng võ Thánh
thuận theo Trời, ứng với người
nay không có, xưa không có

Tụng rằng:

nộp đất họ Tiền cùng họ Lý
còn lại lần lượt chầu về ngôi vua
Trời trao việc thống nhất cho chân nhân
chẳng giết dân chúng, giữ được việc nối dõi.

Kim Thánh Thán bàn rằng: tượng này chủ việc Tống Thái Tổ lên ngôi ở Biện Đô, khắp nơi yên ổn, hai họ Tiền, Lý đều quy thuận, đây là một thời kỳ yên ổn.

(hình vẽ: chỉ việc các tướng lĩnh và binh sỹ phò Triệu Khuông Dẫn lên ngôi.

Sấm
Câu 1: theo sách Dịch, Thiên nhất sinh thủy, địa lục thành chi. Chỉ nhà Tống ứng với Thủy Đức.
Câu 2: Tống Thái Tổ đi lên từ võ tướng.
Câu 4: chính sách của nhà Tống khác với các đời trước.

Tụng
Câu 1: chỉ chính sách Nạp Thổ của họ Triệu.

Nhà Tống không lạm sát, không giết công thần, thực hiện chính sách tập quyền, nho giáo cực thịnh)

第十七象 庚辰  坎下坤上  

讖曰
聲赫赫 干戈息
掃邊氛 奠邦邑

頌曰
天子親征乍渡河 歡聲百里起謳歌
運籌幸有完全女 奏得奇功在議和

聖嘆曰此象主宋真宗澶淵之役.景德元年契丹大舉入寇,寇準勸帝親, 完全女指準,乃幸澶淵.既渡河,遠近望見御蓋皆踴躍呼萬歲,聲聞數十里,契丹奪氣,遂議和.

Phiên âm

Đệ thập thất tượng  Canh Thìn  Khảm hạ Khôn thượng   Sư

Sấm viết

thanh hách hách
can qua tức
tảo biên phân
điện bang ấp

Tụng viết:

Thiên tử thân chinh sạ độ hà
hoan thanh bách lý khởi âu ca
vận trù hạnh hữu Hoàn toàn Nữ
tấu đắc kỳ công tại nghị hòa

Thánh Thán viết: thử tượng chủ Tống Chân Tông Thiền Uyên chi dịch. Cảnh Đức nguyên niên, Khiết Đan nhập khấu, Khấu Chuẩn khuyến đế thân chinh. Hoàn Toàn Nữ chỉ Chuẩn, nãi hạnh Thiền Uyên. Ký độ hà, viễn cận vọng kiến ngự cái độ hà giai dũng dược hô vạn tuế, thanh văn sổ thập lý, Khiết Đan đoạt khí, toại nghị hòa.

Tạm dịch

Sấm rằng:

âm thanh vang dội
hết việc đánh nhau
quét sạch rắc rối ờ biên thùy
ổn định vững chắc non sông

Tụng rằng:

vua cầm quân vừa sang sông
tiếng reo vui ngợi ca vang cả trăm dặm
trù tính may có Hoàn toàn là Đàn Bà
thành được kỳ công là ở việc nghị hòa

Kim Thánh Thán bàn rằng: tượng này chủ việc Tống Chân Tông đến Thiền Uyên. Năm đầu Cảnh Đức, quân Khiết Đan xâm lược đất Tống, Khấu Chuẩn khuyên Chân Tông ra trận, chữ Hoàn Toàn Nữ là chỉ Chuẩn, (Tống Chân Tông) bèn đến Thiền Uyên, vừa sang sông, xa gần trông thấy lọng của vua, đều nhảy lên hô muôn năm, vang vọng hàng chục dặm, Khiết Đan mất tinh thần nên nghị hòa.

(hình vẽ: người mặc triều phục là Chân Tông, người kia là Khiết Đan

Sấm
Chỉ việc binh sỹ tung hô, chấm dứt chiến tranh

Tụng

Câu 3: chữ Hoàn ghép với chữ Nữ thành chữ Khấu chỉ Khấu Chuẩn)

 第十八象  辛巳  艮下艮上      

讖曰
天下之母 金刀伏兔
三八之年 治安鞏固

頌曰
水旱頻仍不是災 力扶幼主鎭埏垓
朝中又見釵光照 宇內承平氣象開

聖嘆曰此象主仁宗嗣立劉太后垂簾聽政旁有一犬其惟狄青乎
Phiên âm

Đệ thập bát tượng  Tân Tỵ  Cấn hạ Cấn thượng  Cấn

Sấm viết

thiên hạ chi mẫu
Kim Đao phục Thố
Tam Bát chi niên
trị an củng cố

Tụng viết

thủy tảo tần nhưng thị bất tai
lực phù ấu chủ trấn duyên cai
triều trung hựu kiến thoa quang chiếu
vũ nội thừa bình khí tượng khai

Thánh Thán viết: thử tượng chủ Nhân Tông tự lập, Lưu thái hậu thùy liêm thính chính, bàng hữu nhất khuyển kỳ duy Địch Thanh hồ.

Tạm dịch

Tượng thứ 18  Tân Tỵ  Cấn dưới Cấn trên  quẻ Cấn

Sấm rằng:

mẹ của thiên hạ
Đao Vàng rình Thỏ
năm của Ba Tám
giữ vững trị an

Tụng rằng:

nước lũ liên hồi (nhưng) chẳng phải là điều xấu
gắng sức giúp vua còn nhỏ giữ biên cương
trong triều đình thấy ánh sáng của cái thoa rọi tới
trong nước mở ra hình bóng thời thanh bình

Kim Thánh Thán bàn rằng: tượng này chủ việc Tống Nhân Tông nối ngôi, Lưu Thái Hậu buông mành nghe việc nước. (hình vẽ) bên cạnh có một con chó, chỉ có thể là Địch Thanh chăng.

(hình vẽ: chỉ Lưu Thái Hậu, con chó là chữ Khuyển   trong chữ Địch có chữ Khuyển thiên bàng viết là .

Sấm
Câu 2: Thỏ tức là Mão , hợp với chữ Kim , chữ Đao thiên bàng viết là, là chữ Lưu .
Câu 3: 3 + 8 = 11, họ Lưu nhiếp chính 11 năm từ 1022-1033.

Tụng
Câu 3: cái thoa là chỉ đàn bà.)

 第十九象 壬午 離下艮上  

讖曰:
眾人𠿦𠿦 盡入其室 
百萬雄師 頭上一石

頌曰
朝用奇謀夕喪師 人民西北盡流離
韶華雖好春光老 悔不深居坐殿墀

聖嘆曰此象主神宗誤用安石,引用群邪,致啟邊釁,用兵西北,喪師百萬。熙寧初,王韶上平戎三策,安石驚為奇謀,力薦於神宗,致肇此禍
𠿦=

Phiên âm

Đệ thập cửu tượng  Nhâm Ngọ Ly hạ Cấn thượng  Bí

Sấm viết

chúng nhân ngân ngân
tận nhập kì thất
bách vạn hùng sư
đầu thượng nhất Thạch

Tụng viết

triêu dụng kì mưu tịch táng sư
nhân dân Tây Bắc tận lưu ly
Thiều hoa tuy hảo xuân quang lão
hối bất thâm cư tọa điện trì

Thánh Thán viết thử tượng chủ Thần Tông ngộ dụng An Thạch, dẫn dụng quần tà, trí khải biên hấn, dụng binh Tây Bắc, táng sư bách vạn, Hy Ninh sơ, Vương Thiều thượng bình Nhung tam sách, An Thạch kinh vị kỳ mưu, lực tiến vu Thần Tông, trí triệu thử họa

Tạm dịch

Tượng thứ 19  Nhâm Ngọ  Ly dưới Cấn trên  quẻ Bí

Sấm rằng:

đám người điêu ngoa
vào hết trong buồng
trăm vạn hùng binh
trên đầu có Đá

Tụng rằng:

sáng dùng mẹo lạ tối chôn vùi quân đội
nhân dân Tây Bắc chia lìa, trôi nổi cả
Thiều hoa tuy tốt nhưng xuân sắp hết
hối hận chẳng ngồi yên nơi cung điện sâu thẳm

Kim Thánh Thán bàn rằng: tượng này chủ việc Tống Thần Tông nhầm dùng Vương An Thạch cùng bọn gian, dẫn đến thay đổi chính sách ở biên giới, thua trận chết hàng trăm vạn quân. Những năm đầu Hy Ninh, Vương Thiều dâng ba sách lược bình định người Nhung, Vương An Thạch sợ hãi vì mẹo lạ, gắng sức dâng lên Thần Tông, dẫn đến họa này.

(hình vẽ: lâu đài trống rỗng, xiêu vẹo muốn đổ, chỉ tình cảnh nhà Tống.

Sấm
Câu 4: chữ Thạch chỉ Vương An Thạch.

Tụng
Câu 3: chữ Thiều chỉ Vương Thiều

Tống Thần Tông dùng Vương An Thạch thực hiện tân pháp, dấy binh đánh nước ta và Tây Hạ, song đều thảm bại, nhà Tống suy yếu.)

 第二十象 癸未  離下乾上  同人 

讖曰
朝無光 日月盲
莫與京 終旁皇

頌曰
父子同心并同道 中天日月手中物
奇雲翻過北海頭 鳳闕龍廷生怛惻

聖嘆曰此象主司馬光卒,蔡京父子弄權,群小朋興,賢良受錮,有日月晦盲之象

Phiên âm

Đệ nhị thập tượng  Quý Tỵ  Ly hạ Càn thượng  Đồng Nhân

Sấm viết  
triêu vô Quang
nhật nguyệt manh
mạc dữ Kinh
chung bàng hoàng

Tụng viết

phụ tử đồng tâm tính đồng đạo
trung thiên nhật nguyệt thủ trung vật    
kỳ vân phiên quá Bắc hải đầu
phượng khuyết long đình sinh đát trắc

Thánh Thán viết thử tượng chủ Tư Mã Quang tốt, Sái Kinh phụ tử lộng quyền, quần tiểu bằng hưng, hiền lương thụ cố, hữu nhật nguyệt hối manh chi tượng.

Tạm dịch

Tượng thứ 20  Quý Tỵ  Ly dưới Càn trên  quẻ Đồng Nhân

Sấm rằng:

sớm mai không Ánh Sáng
mặt trăng mặt trời tối om
chớ cùng với Kinh thành
cuối cùng hồi hộp

Tụng rằng:

cha con cùng lòng và chung đường
lấy các thứ ngay giữa ban ngày ban mặt
mây lạ bay qua đầu biển Bắc
cung điện lâu đài thấy xót xa

Kim Thánh Thán bàn rằng: tượng này chủ việc Tư Mã Quang chết, cha con Sái Kinh lộng quyền, bọn tiểu nhân dấy lên, hiền lương bị giam hãm, (nên) có hình tượng mặt trời mặt trăng mờ tối.

(hình vẽ: cảnh hoang tàn xơ xác trong lũ lụt, chỉ tình hình nhà Tống.

Sấm
Câu 1: có thể đọc là "Triều vô Quang”=triều đình không còn Tư Mã Quang.
Câu 3: Kinh là Sái Kinh, không nên dùng mà lại dùng.

Tụng
Câu 1: cha con Sái Kinh đồng lòng, đồng chí hướng.
Câu 2: chỉ cha con Sái Kinh ăn của đút công khai.
Câu 3: chỉ nhà Kim xâm lược Tống.

Đây là tình hình đời Triết Tông, Huy Tông.) 

 第二十一象  甲申  兌下艮上  

讖曰
空厥宮中 雪深三尺
吁嗟元𩠬 南轅北轍

頌曰
妖氛未靖不康寧 北掃烽煙望帝京
異姓立朝終國位 卜世三六又南行

聖嘆曰此象主金兵南下,徽宗禪位。靖康元年十一月,京師陷,明年四月,金以二帝及宗室妃嬪北去,立張邦昌為帝。卜世三六者,宋自太祖至徽欽,凡九世,然則南渡以後又一世矣。

Phiên âm

Đệ nhị thập nhất tượng  Giáp Thân  Đoài hạ Cấn thượng   Tổn

Sấm viết:

không quyết cung trung
tuyết thâm tam xích
hu ta nguyên thủ
Nam viên Bắc triệt

Tụng viết

yêu phân vị tịnh bất khang ninh
Bắc tảo phong yên vọng Đế kinh
dị tính lập triều chung quốc vị
bốc thế Tam Lục hựu Nam hành

Tạm dịch

Sấm rằng:

trong cung trống rỗng
tuyết dày ba thước
ôi chao người đứng đầu
đi Bắc về Nam

Tụng rằng:

yêu khí chưa hết chẳng khang ninh
phía Bắc quét khói lửa, trông về Đế kinh
khác họ lập triều đình, vị trí quốc gia đến lúc cuối
bói được Ba Sáu đời đi về phía Nam

Kim Thánh Thán bàn rằng: tượng này chủ việc nhà Kim xâm chiếm phương Nam, Tống Huy Tông nhường ngôi. Tháng 11 năm đầu Tĩnh Khang, kinh đô bị vây, tháng 4 năm sau, nhà Kim bắt  hai vua Tống cùng cung thất phi tần đưa về phương bắc, lập Trương Bang Xương làm vua. "Bói được ba sáu đời" là lấy số chẵn, nhà Tống từ Thái Tổ đến Huy Tông, Khâm Tông trải 172 năm.

(hình vẽ: chỉ Tống Huy Tông và Khâm Tông bị bắt đưa về nước Kim.

Sấm
Câu 4: hai vua bị bắt về phương bắc, chạy về phía nam lập vua mới.

Tụng
Câu 1,2: nhà Kim xâm chiếm Tống.
Câu 3: chỉ họ Trương làm vua.
Câu 4: luận như Kim Thánh Thán 3 x 6 = 18, tức là 180 năm-lấy tròn số- nhà Bắc Tống; còn luận 3 + 6 = 9, Bắc Tống từ Thái Tổ đến Khâm Tông gồm 9 vua cũng thông.)

 第二十二象  乙酉 兌下離上   

讖曰
𢒗當空 否極見泰
𩡫𩡫淼淼 木冓大賴

頌曰
神京王氣滿東南 禍水汪洋把策干
一木會支二八月 臨行馬色半平安

聖嘆曰此象康王南渡建都臨安秦檜專權遂成偏安之局. 木冓康王名構一木會支二八月者指秦檜也木會爲檜春半秋半卻成秦字

Phiên âm

Đệ nhị thập nhị tượng  Ất Dậu  Đoài hạ Ly thượng   Khuê

Sấm viết

Thiên Mã đương không
bĩ cực kiến thái
phàm phàm miểu miểu
Mộc Cấu đại lại

Tụng viết

thần kinh vương khí mãn Đông Nam
họa thủy uông dương bả sách can   
nhất Mộc Hội chi Nhị Bát Nguyệt
Lâm Hàng mã sắc bán bình an

Thánh Thán viết thử tượng Khang Vương Nam độ, kiến đô Lâm An, Tần Cối chuyên quyền, toại thành thiên an chi cục. Mộc Cấu Khang vương danh Cấu; nhất Mộc Hội chi Nhị Bát Nguyệt giả chỉ Tần Cối dã, Mộc Hội vi Cối, Xuân bán Thu bán khước thành Tần tự.

Tạm dịch

Tượng thứ 22  Ất Dậu  Đoài dưới Ly trên  quẻ Khuê

Sấm rằng:

ngựa Trời ở trên không trung
bĩ cực thái lai
nhong nhong, mênh mang
nhờ cậy nhiều vào Cây trong Cung Kín

Tụng rằng:

kinh đô, khí đế vương đầy đặc ở phía Đông Nam
nước lụt mênh mang nắm lấy hiệu lệnh
một Cây Gặp cành tháng Hai tháng Tám
Đến Hàng màu ngựa một nửa yên lành

Kim Thánh Thán bàn rằng: tượng này chủ việc Khang Vương vượt sông dựng đô ở Lâm An, Tần Cối chuyên quyền, tạo thành cục thế một phía bình yên. Mộc Cấu (là chỉ) Khang Vương tên là Cấu; nhất Mộc Hội chi Nhị Bát Nguyệt là chỉ Tần Cối, Mộc Hội là Cối, nửa chữ Xuân nửa chữ Thu gộp lại là chữ Tần.

(hình vẽ: chỉ việc Khang Vương ôm ngựa vượt sông khi bị truy đuổi.

Sấm
Câu 1,2,3 chỉ việc Khang Vương được Thần Linh giúp sức mà qua được sông.
Câu 4: chữ Mộchợp với chữ Cấu thành chữ Cấu

Tụng
Câu 3: chữ Mộc hợp với chữ Hội là chữ Cối , tháng 2 là giữa Xuân tức là Bán Xuân, hiểu theo ý nửa chữ Xuân, tháng 8 là giữa Thu tức là Bán Thu, hiểu theo ý là nửa chữ Thu, như Kim Thánh Thán luận, chữ Xuân lấy một nửa là bỏ đi chữ Nhật , thay bằng chữ Hòa là nửa chữ Thu , thành chữ Tần .
Câu 4: Lâm là Lâm An, Hàng là Hàng Châu.

Đây là việc đầu Nam Tống Cao Tông
Có truyền thuyết về việc Khang Vương qua sông. Khi Khang Vương cưỡi ngựa chạy trốn đến bờ sông lớn, ngựa không dám xuống nước. Đang lúc gấp gáp, bỗng thấy một con tuấn mã chạy tới, Khang Vương bèn nhảy lên cưỡi, tuấn mã liền bơi qua sông. Đến một miếu thờ Thần bên bờ bên kia thì dừng lại, Khang Vương đưa mắt tìm không thấy ngựa đâu, chỉ thấy một con ngựa bằng bùn ướt sũng ở trong miếu. Khang Vương chợt nghĩ, chính con ngựa đất này đã hy sinh bản thân để đưa mình qua sông chăng.
Đấy chính là câu chuyện “Nê mã độ Khang Vương”.)

 第二十三象  丙戍 兌下乾上   

讖曰
似道非道 乾沈坤黯
祥光宇內 一江斷楫

頌曰
胡兒大張撻伐威 兩柱擎天力不支
如何兵火連天夜 猶自張燈作水嬉

聖嘆曰此象主賈似道當權,汪立信文天祥輩不能以獨力支持宋室。襄樊圍急,西子湖 邊似道猶張燈夜宴,宋室之亡其宜也

Phiên âm

Đệ nhị thập tam tượng  Bính Tuất  Đoài hạ Càn thượng   Lý

Sấm viết

Tự Đạo phi đạo
Càn trầm Khôn ảm
Tường quang vũ nội,
Nhất Giang đoạn tiếp

Tụng viết

Hồ nhi đại trương Thát phạt uy
Lưỡng Trụ kình thiên lực bất chi
như hà binh hỏa liên thiên dạ
do Tự trương đăng tác thủy hy

Thánh Thán viết thử tượng chủ Giả Tự Đạo đương quyền, Uông Lập Tín, Văn Thiên Tường bối bất năng dĩ độc lực chi trì Tống thất, tương phiền vi cấp, Tây Tử hồ biên Tự Đạo do trương đăng dạ yến, Tống thất chi vong kỳ nghi dã

Tạm dịch

Tượng thứ 23  Bính Tuất  Đoài dưới Càn trên   quẻ Lý

Sấm rằng:

Giống Như Đạo (mà) không có đạo
Trời chìm xuống, Đất tối tăm
Điềm Lành soi sáng trong nước
Một Dòng Sông gãy mái chèo

Tụng rằng:

Người Hồ mở rộng oai lực đánh chiếm Nhanh
Hai Trụ Cột chống Trời chẳng đủ sức đỡ nổi
làm sao mà binh lửa suốt ngày đêm
đấy là do Từ việc chăng đèn làm chỗ vui chơi trên nước

Kim Thánh Thán bàn rằng: tượng này chủ việc Giả Tự Đạo nắm quyền, bọn Uông Lập Tín, Văn Thiên Tường sức cô, chẳng thể chống đỡ nổi cho nhà Tống, trong lúc bối rối vì bị bao vây gấp, bên Hồ Tây, Giả Tự Đạo lại chăng đèn bày tiệc vui buổi tối. Nhà Tống mất là phải thôi.

(hình vẽ: cung điện xiêu vẹo sắp đổ, một người khom lưng giơ hai tay, nửa như đỡ, nửa như xô cho đổ, bảo rằng chỉ bọn Uông, Văn cũng được, mà nói là họ Giả cũng thông.

Sấm
Câu 1: Tự Đạo là chỉ Giả Tự Đạo
Câu 2: tình hình nhà Tống nguy ngập
Câu 3: Tường là chỉ Văn Thiên Tường
Câu 4: Nhất Giang,  chữ Nhất thêm vào chữ Công trong chữ Giang thành chữ Uông chỉ Uông Lập Tín, chèo gãy mái là hỏng việc.

Tụng
Câu 1: Hồ nhi là người Hồ ở phương Bắc, Thát đồng âm với Thát chỉ người Mông Cổ.
Câu 2: Lưỡng Trụ chỉ bọn Uông, Văn.
Câu 3,4: chỉ việc họ Giả, thân làm thái tể, lúc nước nguy biến, chẳng nghĩ gì tới việc chống giặc, chỉ chuyên cắt đất cầu hòa, ăn của đút, đú đởn với gái.
Đây là nói về giai đoạn cuối của nhà Tống)

第二十四象  丁亥 兌下巽上   中孚      

讖曰
山厓海邊 不帝亦仙
二九四八 於萬斯年

頌曰
十一卜人小月終 回天無力道俱窮
干戈四起疑無路 指點洪濤巨浪中

金嘆曰此象主帝昺遷崖山,元令張弘範來攻,宋將張世傑兵潰,陸秀夫負帝赴海宋室以亡

Phiên âm

Đệ nhị thập tứ tượng  Đinh Hợi  Đoái hạ Tốn thượng  Trung Phu

Sấm viết

Sơn Nhai hải biên
bất đế diệc tiên
Nhị Cửu Tứ Bát
ô vạn tư niên

Tụng viết

Thập Nhất Bốc Nhân Tiểu Nguyệt chung
hồi thiên vô lực đạo câu cùng    
can qua tứ khởi nghi vô lộ
chỉ điểm hồng đào cự lãng trung

Thánh Thán viết thử tượng chủ đế Bính thiên Nhai Sơn, Nguyên lệnh Trương Hoằng Phạm lai công, Tống tướng Trương Thế Kiệt binh hội, Lục Tú Phu phụ đế phó hải, Tống thất dĩ vong.

Tạm dịch

Tượng thứ 24  Đinh Hợi  Đoài dưới Tốn trên   quẻ Trung Phu

Sấm rằng:

Bên Núi ven biển
chẳng vua thì tiên
Hai Chín Bốn Tám
ôi! muôn năm mới

Tụng rằng:

Mười Một Người Bói, Tháng Thiếu hết
không cách nào xoay chuyển được, đường đi cũng không còn
giáo mác dựng lên bốn phía, ngờ rằng không có lối (thoát)
chỉ xuống giữa chốn sóng cồn dữ dội.

Kim Thánh Thán bàn rằng: tượng này chủ việc Đế Bính dời đến Nhai Sơn, nhà Nguyên sai Trương Hoằng Phạm tiến đánh, tướng nhà Tống là Trương Thế Kiệt thua trận, Lục Tú Phu ôm vua Tống nhảy xuống biển, nhà Tống mất.

(hình vẽ: mặt trời chỉ vua, đang chìm xuống biển, là chỉ Đế Bính chết chìm; khúc cây nhỏ nhoi nổi trên mặt nước, chỉ chiến lũy bằng thuyền ở cửa biển Nhai Sơn.

Sấm
Câu 1: Sơn Nhai là Nhai Sơn
Câu 2: Tiên là linh hồn người chết, chỉ Đế Bính chết.
Câu 3: 2 x 9 = 18 ; 4 + 8 = 12 ; 18 + 12 = 30, nhà Tống trải 320 năm, lấy tròn là 300 năm; lại nữa, 2 x 9 = 18 nhà Tống có 18 vua, Bắc 9, Nam 9.
Câu 4: vua mới

Tụng
Câu 1: chữ Thập , chữ Nhất , chữ  Bốc , chữ Nhân hợp lại là chữ Tẩu , chữ Tiểu với chữ Nguyệt là chữ Tiếu , chữ Tẩu hợp với chữ Tiếu thành chữ Triệu . Họ của vua Tống. Chung là hết.
Câu 2,3: chỉ lúc cuối, vua quan quân lính bị bao vây ở cửa biển Nhai Sơn.
Câu 4: Lục Tú Phu tâu với vua trẻ con việc nên chết chứ không đầu hàng, rồi ôm Đế Bính nhảy xuống biển-chẳng hiểu vua có đồng ý không.
Nói về sự diệt vong của nhà Tống.) 

 第二十五象  戊子 艮下巽上   

讖曰
北帝南臣 一兀自立
斡難河水 燕巢捕䴰

頌曰
鼎足爭雄事本奇 一狼二鼠判須臾
北關鎖鑰雖牢固 子子孫孫五五宜

聖嘆曰此象主元太祖稱帝斡難河,太祖名鐵木真,元代凡十主。斧鐵也,柄木也,斧柄 十段即隱十主之意。

Phiên âm

Đệ nhị thập ngũ tượng  Mậu Tý   Cấn hạ Tốn thượng   Tiệm

Sấm viết

Bắc đế Nam thần
Nhất Ngột tự lập
Oát Nan hà thủy
Yến sào bổ Thục

Tụng viết

đỉnh túc tranh hùng sự bản kỳ
Nhất Lang Nhị Thử phán tu du
Bắc quan tỏa thược tuy lao cố
tử tử tôn tôn Ngũ Ngũ nghi

Thánh Thán viết: thử tượng chủ  Nguyên Thái Tổ xưng đế Oát Nan hà, Thái Tổ danh Thiết Mộc Chân, Nguyên phàm thập chủ, phủ Thiết dã, bính Mộc dã, phủ bính thập đoạn tức ẩn thập chủ chi ý.

Tạm dịch

Tượng thứ 25  Mậu Tý   Cấn dưới Tốn trên   quẻ Tiệm

Sấm rằng:

Vua Bắc tôi Nam
Một Cao Vọt  tự đứng
Quay Vòng Khó Khăn nước sông
Tổ Yến thêm họ Thục

Tụng rằng:

chân vạc tranh hùng việc lạ lùng
Một Sói Hai Chuột là biết ngay (tình hình)
cửa phía Bắc chìa khóa tuy chắc chắn
con con, cháu cháu Năm Năm nên (vậy)

Kim Thánh Thán bàn rằng: tượng này chủ việc Nguyên Thái Tổ xưng đế ở sông Oát Nan, Thái Tổ tên là Thiết Mộc Chân, đời nhà Nguyên có 10 vua; cái búa là Sắt vậy, cán búa là Gỗ vậy, cán búa có 10 đoạn là ngầm chỉ 10 vua.

(hình vẽ: lưỡi búa là Thiết-Sắt, cán búa là Mộc-Gỗ, chỉ Thiết Mộc Chân - Thành Cát Tư Hãn; cán búa có 10 đốt, chỉ nhà Nguyên có 10 vua.

Sấm
Câu 1: chỉ nhà Nguyên làm chủ Trung Nguyên.
Câu 2: chữ Nhất hợp với chữ Ngột là chữ Nguyên .
Câu 3: Nguyên Thái Tổ xưng đế ở sông Oát Nan.
Câu 4: Yến Sào là chỉ kinh đô nước Yên, tức là Bắc Kinh; họ Thục, Thiết Mộc phiên thiết thành Thục.

Tụng
Câu 1: chỉ thế chân vạc Nguyên, Kim, Tống.
Câu 2: một Sói là Nguyên, hai chuột là Kim, Tống; thấy ngay được kết cục.
Câu 3,4: tuy mạnh mẽ chắc chắn, nhà Nguyên cũng chỉ có 5 + 5 = 10 đời vua, trong khoảng 100 năm, thực tế là từ 1271-1368 = 98 năm.)

 第二十六象 已丑  震下震上   

讖曰
時無夜 年無米
花不花 賊四起

頌曰
鼎沸中原木木來 四方警報起邊垓
房中自有長生術 莫怪都城澈夜開

聖嘆曰此象主順帝惑西僧房中運氣之術,溺於娛樂,以致劉福通、徐壽輝、方國珍、明玉珍、張士誠,陳友諒等狼顧鴟張,乘機而起。宦官樸不花壅不上聞,至徐達,常遇春直入京師,都城夜開,毫無警備。有元一代竟喪於淫僧之手,不亦哀哉。劉福通立韓林兒 為帝,故曰木木來。

Phiên âm

Đệ nhị thập lục tượng  Kỷ Sửu   Chấn hạ Chấn thượng  Chấn

Sấm viết

thời vô dạ
niên vô mễ    
Hoa bất hoa
tặc tứ khởi

Tụng viết

đỉnh phí trung nguyên Mộc Mộc lai
tứ phương cảnh báo khởi biên cai    
phòng trung tự hữu trường sinh thuật
mạc quái đô thành triệt dạ khai

Thánh Thán viết thử tượng chủ Thuận Đế hoặc Tây Tăng phòng trung vận khí chi thuật, nịch vu ngu lạc, dĩ trí Lưu Phúc Thông, Từ Thọ Huy, Phương Quốc Trân,  Minh Ngọc Trân, Trương Sỹ Thành, Trần Hữu Lượng đẳng, lang cố si trương, thừa cơ nhi khởi, hoạn quan Phác Bất Hoa ủng bất thượng văn,  chí Từ Đạt,  Thường Ngộ Xuân trực nhập kinh sư, đô thành dạ khai, hào vô cảnh bị, hữu Nguyên nhất đại cánh táng vu dâm tăng chi thủ, bất diệc ai tai, Lưu Phúc Thông lập Hàn Lâm Nhi vi đế, cố viết Mộc Mộc lai.

Tạm dịch

Tượng thứ 26  Kỷ Sửu   Chấn dưới Chấn trên  quẻ Chấn

Sấm rằng:

bấy giờ không có ban đêm
năm không có gạo
Hoa mà chẳng đẹp đẽ
giặc dấy lên ở bốn phía

Tụng rằng:

vạc nước sôi Trung Nguyên Cây Cây tới
bốn phía đều báo động về việc dấy lên ở vùng biên giới
trong buồng tự có cách sống lâu
chớ lạ khi kinh đô thâu đêm mở cửa

Kim Thánh Thán bàn rằng: tượng này chủ việc Thuận Đế mê mẩn vì đám sư sãi Tây Tạng với thuật Phòng Trung Vận Khí, chìm đắm trong vui thú, để đến khi bọn Lưu Phúc Thông, Từ Thọ Huy, Phương Quốc Trân,  Minh Ngọc Trân, Trương Sỹ Thành, Trần Hữu Lượng, cú rình sói chực, thừa cơ nổi lên, hoạn quan Phác Bất Hoa ngăn cản không báo cho vua biết, đến như Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân vào thẳng kinh đô, kinh đô ban đêm cửa mở, không có chút phòng bị gì, nhà Nguyên cuối cùng mất ở tay của bọn sư sãi dâm ô, chẳng cũng buồn thay; Lưu Phúc Thông lập Hàn Lâm Nhi làm vua, vậy nên nói rằng Mộc Mộc lai.

(hình vẽ: một nhà sư, theo sau là một đám con gái, chỉ về việc các nhà sư Tây Tạng cùng với “tuyệt kỹ” dùng gái để luyện công hòng sống mãi, đã làm Thuận Đế mê mẩn tin theo.

Sấm
Câu 1: chỉ việc hú hý với gái suốt đêm để luyện cách sống mãi của Thuận Đế.
Câu 2: mất mùa liên miên.
Câu 3: Hoa là Phác Bất Hoa.

Tụng
Câu 1: chữ Mộcvới chữ Mộclà chữ Lâm , chỉ Hàn Lâm Nhi.

Hàn Lâm Nhi là con của Bạch Liên giáo Hàn Sơn Đồng韩山童, với khởi nghĩa Khăn Đỏ. Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương tham gia phong trào này.) 

 第二十七象  庚寅 乾下震上   

讖曰
惟日與月 下民之極
應運而興 其色曰赤

頌曰
枝枝葉葉現金光 晃晃朗朗照四方
江東岸上光明起 談空說偈有真王

聖嘆曰此象主明太袓登極。太祖曾為皇覺寺僧,洪武一代海內熙洽,治臻太平。

Phiên âm

Đệ nhị thập thất tượng  Canh Dần  Càn hạ Chấn thượng  Dự

Sấm viết

duy Nhật dữ Nguyệt
hạ dân chi cực
ứng vận nhi hưng
kỳ sắc viết Xích

Tụng viết

chi chi diệp diệp hiện kim quang
hoảng hoảng lãng lãng chiếu tứ phương
Giang Đông ngạn thướng quang Minh khởi
Đàm Không Thuyết Kệ hữu chân vương

Thánh Thán viết thử tượng chủ Minh Thái Tổ đăng cực, Thái Tổ tằng vi Hoàng Giác tự tăng, Hồng Vũ nhất đại hải nội hy hiệp, trị trăn thái bình

Tạm dịch

Tượng thứ 27  Canh Dần  Càn dưới Chấn trên  quẻ Dự

Sấm rằng:

Mặt Trời với Mặt Trăng
dân đen cùng cực
ứng theo vận mà dấy
màu của nó là màu Đỏ

Tụng rằng

cành cành lá lá hiện kim quang
chói lọi sáng bừng rọi bốn phương
trên bờ Giang Đông Sáng bừng lên
bàn về lẽ Không, nói về Kệ, có nhà vua chân chính.

Kim Thánh Thán bàn rằng: tượng này chủ việc Minh Thái Tổ lên ngôi, Thái Tổ từng làm sư ở chùa Hoàng Giác. Hồng Vũ là một thời đại thịnh trị thái bình.

(hình vẽ: hai hình tròn là Mặt Trời- Nhậtvà Mặt Trăng-Nguyệt, hợp lại là chữ Minh, chỉ nhà Minh; trên Cây, là chữ Mộc, có một cái thước vuông, là chữ Chu, chỉ Chu Nguyên Chương.

Sấm
Câu 1: chữ Nhật và chữ Nguyệt hợp lại thành chữ Minh .
Câu 2: Chu Nguyên Chương xuất thân cùng khổ.
Câu 4: Xích là màu đỏ, gần giống Chu cũng là màu đỏ.

Tụng
Câu 3: Minh là nhà Minh, dấy lên từ Giang Đông.
Câu 4: Đàm Kinh Thuyết Kệ, là chỉ Chu Nguyên Chương đã làm sư ở chùa Hoàng Giác, từ năm 17 tuổi đến 25 tuổi, là thày chùa kỳ cựu.)

 第二十八象  辛卯  坎下震上  

讖曰
草頭火腳 宮闕灰飛
家中有鳥 郊外有尼

頌曰
羽滿高飛日 爭妍有李花
真龍游四海 方外是吾家

聖嘆曰此象主燕王起兵李景隆迎燕兵入都宮中大火建文祝髮出亡

Phiên âm

Đệ nhị thập bát tượng  Tân Mão   Khảm hạ Chấn thượng   Giải

Sấm viết
Thảo đầu Hỏa cước
cung khuyết khôi phi
gia trung hữu Điểu
Giao Ngoại hữu Ni

Tụng viết  
Vũ mãn cao phi Nhật
tranh nghiên hữu Lý hoa
Chân Long du tứ hải
phương ngoại thị ngô gia

Thánh Thán viết thử tượng chủ Yên Vương khởi binh Lý Cảnh Long nghênh Yên binh nhập đô, cung trung đại hỏa, Kiến Văn chúc phát xuất vong.

Tạm dịch

Tượng thứ 28  Tân Mão   Khảm dưới Chấn trên   quẻ Giải

Sấm rằng:

đầu Cỏ chân Lửa
cung khuyết khói bay
trong nhà có Chim
Giao Ngoại có bà vãi

Tụng rằng:

Mặt Trời bay cao đầy lông lá
tranh nhau vẻ đẹp với hoa Mận
Rồng Thật đi khắp bốn biển
phía ngoài là nhà của tôi

Kim Thánh Thán bàn rằng: tượng này chủ việc Yên Vương dấy binh, Chu Cảnh Long đón quân Yên vào kinh đô, cung điện cháy lớn, Kiến Văn xuống tóc bỏ trốn.

(hình vẽ: cung điện cháy lửa bốc cao, chỉ việc đốt phá Nam Kinh.

Sấm
Câu 1: chữ Yên trên đầu là chữ Thảo viết trong bộ thủ , dưới chân là chữ Hỏa   viết trong bộ thủ , chỉ Yên Vương.
Câu 2: đốt cháy Kim Lăng
Câu 3: Điểu, chữâm Yên, là đất Yên, âm Yến là chim én, đây là chơi chữ nên ví Yên Vương là Chim.
Câu 4: chỉ việc Kiến Văn cạo đầu làm sư, chạy trốn ra nước ngoài.

Tụng
Câu 1: Mặt Trời chỉ Vua, Đầy Lông vì là Chim Én.
Câu 2: Lý, là chỉ Lý Cảnh Long.
Câu 3,4: chỉ Kiến Văn lưu lạc xứ người.

Yên Vương Chu Đệ đoạt ngôi của cháu là Kiến Văn.
Có truyện về việc này như sau: Khi Chu Đệ đánh vào cửa lớn kinh thành, trong triều hoảng loạn, Kiến Văn Đế đã tính tới việc tự sát. May mắn có người hầu là Vương Việt, nhắc việc Cao Đế Chu Nguyên Chương, khi qua đời có để lại một cái hộp, dặn con cháu, khi gặp nạn lớn, mở ra xem sẽ có cách ứng phó. Mọi người lấy hộp mở ra xem. Hiện ra trước mắt là ba tờ Độ Điệp, một tờ Ứng Văn, một tờ Ứng Năng, một tờ Ứng Hiền. Lại có áo cà sa, giày của sư, các thứ cần thiết của nhà sư. Mười lạng bạc trắng, một cái dao cạo. Ngoài ra còn một tờ giấy màu hồng viết “Ứng Văn ra theo Quỷ Môn, những người còn lại theo suối Ngự mà đi, xế chiều gặp nhau ở phòng phía tây của Thần Lạc Quán.”. Vua Kiến Văn chẳng suy nghĩ nhiều, lấy dao xuống tóc. Ngoài ra, có Dương Ứng Năng cùng với Hy Hiền xuống tóc theo. Cùng lúc, vua Kiến Văn ra lệnh đốt cháy cung điện. Sửa soạn xong xuôi, vua Kiến Văn theo Quỷ Môn đi ra. Ngoài cửa này giáp với sông, không ngờ đã có một người già mặc quần áo đạo sỹ đón, mồm nói muôn năm. Hỏi ra mới biết là Vương Thăng, chủ trì Thần Lạc Quán. Vương Thăng nói “Đêm qua ngủ mơ gặp Cao Hoàng Đế, mệnh thần đến đây, vì thế mới đưa thuyền ra chờ.”.)

 第二十九象  壬辰  巽下震上  

讖曰
枝發厥榮 為國之棟
皞皞熙熙 康樂利眾

頌曰
一枝向北一枝東 又有南枝種亦同
宇內同歌賢母德 真有三代之遺風

聖嘆曰此象主宣宗時張太後用楊士奇、楊溥、楊榮三人,能使天下乂安,希風三代,此一治也。時人稱士奇為西楊,溥為南楊,榮為東楊

Phiên âm

Đệ nhị thập cửu tượng  Nhâm Thìn  Tốn hạ Chấn thượng  Hằng

Sấm viết
chi phát quyết Vinh
vi quốc chi đống
hạo hạo hy hy
khang lạc lợi chúng

Tụng viết
nhất chi hướng Bắc nhất chi Đông
hựu hữu Nam chi chủng diệc đồng
vũ nội đồng ca hiền mẫu đức
chân hữu tam đại chi di phong
Thánh Thán viết thử tượng chủ Tuyên Tông thời, Trương Thái Hậu dụng Dương Sỹ Kỳ, Dương Phổ, Dương Vinh tam nhân, năng sử thiên hạ nghệ an, hy phong tam đại, thử nhất trị dã; thời nhân xưng Sỹ Kỳ vi Tây Dương, Phổ vi Nam Dương, Vinh vi Đông Dương.

Tạm dịch

Tượng thứ 29  Nhâm Thìn  Tốn dưới Chấn trên  quẻ Hằng

Sấm rằng:

cành mọc Sum Suê
làm trụ cột của nước nhà
lồng lộng vui hòa
an lành vui vẻ, tốt cho dân chúng

Tụng rằng:

một cành hướng Bắc một cành Đông
lại có cành Nam cùng giống ấy
trong nước cùng ca ngợi đức của bậc hiền mẫu
thực là như thói thường tốt đẹp của thời Tam Đại còn sót lại

Kim Thánh Thán bàn rằng: tượng này chủ việc thời Tuyên Tông, Trương Thái Hậu dùng ba người: Dương Sỹ Kỳ, Dương Phổ, Dương Vinh; giúp cho khắp nơi yên ổn, ngưỡng mộ dáng vẻ khí tiết của thời Tam Đại, đấy là một lần trị vậy. Lúc bấy giờ người ta gọi Sỹ Kỳ là Tây Dương, Phổ là Nam Dương, Vinh là Đông Dương.

(hình vẽ: ba cây Dương là chỉ Dương Sỹ Kỳ, Dương Phổ, Dương Vinh.

Sấm
Câu 1: Vinh là Dương Vinh

Đây là nói về thời Minh Tuyên Đức.)

 第三十象  癸巳   巽下坤上     

讖曰
半圭半林 合則生變
石亦有靈 生榮死賤

頌曰
缺一不成也占先 六龍親御到胡邊
天心復見人心順 相克相生馬不前

聖嘆曰此象主張太後崩權歸王振,致有乜先之患。其後上皇復闢,石亨自詡首功,卒以恣橫伏誅,此一亂也.

Phiên âm

Đệ tam thập tượng  Quý Tị   Tốn hạ Khôn thượng   Thăng

Sấm viết

bán Khuê bán Lâm
hợp tắc sinh biến
Thạch diệc hữu linh
sinh vinh tử tiện
Tụng viết

khuyết Nhất bất thành Dã chiếm Tiên
Lục Long thân ngự đáo Hồ biên    
Thiên tâm phục kiến nhân tâm Thuận
tương khắc tương sinh Mã bất tiền

Thánh Thán viết thử tượng chủ Trương Thái Hậu băng, quyền quy Vương Chấn, trí hữu Niết Tiên chi hoạn, kỳ hậu thượng hoàng phục tích, Thạch Hanh tự hủ thủ công, tốt dĩ tứ hoành phục tru, thử nhất loạn dã.

Tạm dịch

Tượng thứ 30  Quý Tị   Tốn dưới Khôn trên   quẻ Thăng

Sấm rằng:

một nửa Khuê  một nửa Cánh Rừng
hợp lại ắt sinh thay đổi
Đá cũng có sự thiêng liêng
sống thì vinh hoa chết nghèo hèn

Tụng rằng:

thiếu Một chẳng thành, vậy nên chiếm trước
Sáu Rồng đến biên giới với người Hồ
Lòng Trời nhìn lại, thuận lòng người
Tương khắc tương sinh, Ngựa cùng đường

Kim Thánh Thán bàn rằng: tượng này chủ việc Trương Thái Hậu qua đời, quyền hành về tay Vương Chấn, đến nỗi gặp họa Niết Tiên, về sau thượng hoàng trở lại làm vua, Thạch Hanh tự khoe có công đầu, rốt cuộc làm bừa nên bị giết. Đây là một thời kỳ loạn vậy.

(hình vẽ: một con thú dữ nom không giống con gì, trên trán có chữ Vương, đấy là chỉ Vương Chấn, chẳng giống con gì chỉ hoạn quan, không phải đực, cũng không phải cái, chẳng là giống gì.

Sấm
Câu 1: nửa chữ Khuê  là chữ Thổ , nửa chữ Lâm  là chữ Mộc  , chỉ biến cố Thổ Mộc Bảo.
Câu 3: Thạch là Thạch Hanh.

Tụng
Câu 1: chữ Dã    thiếu đi một nét sổ là chữ Niết , cùng với chữ Tiên  ở cuối, chỉ Niết Tiên,
Câu 2: Lục Long là quẻ Càn, chỉ vua, đây là nói về việc Minh Anh Tông thân chinh dẫn quân lên biên giới phía Bắc.
Câu 3: Thiên, Thuận là chỉ năm đầu Thiên Thuận
Câu 4: Mã là chỉ năm Canh Ngọ 1450, Anh Tông được thả về nước, nhưng bị giam cầm.

Đây là nói về các việc đời Minh Anh Tông.)

 第三十一象  甲午 離下巽上  家人

讖曰
當塗遺孽 穢亂宮闕
一男一女 斷送人國

頌曰
忠臣賢士盡沉淪 天啟其衷亂更紛
縱有胸懷能坦白 乾坤不屬舊明君

聖嘆曰此象主天啟七年間,妖氣漫天,元氣受傷。一男一女指魏閹與客氏而言。客氏熹宗乳母,稱奉聖夫人。

Phiên âm

Đệ tam thập nhất tượng  Giáp Ngọ Li hạ Tốn thượng  Gia Nhân

Sấm viết

đương đồ di nghiệt
uế loạn cung khuyết
Nhất Nam Nhất Nữ
đoạn tống nhân quốc

Tụng viết

Trung thần Hiền sỹ tận trầm luân
Thiên Khải kỳ trung loạn cánh phân    
túng hữu hung hoài năng thản bạch
Càn Khôn bất thuộc cựu Minh Quân

Thánh Thán viết thử tượng chủ Thiên Khải thất niên gian, yêu khí mạn thiên, nguyên khí thụ thương, nhất nam nhất nữ chỉ Ngụy Yêm dữ Khách Thị nhi ngôn,  khách thị Hy Tông nhũ mẫu, xưng Phụng Thánh Phu Nhân

Tạm dịch

Tượng thứ 31  Giáp Ngọ  Ly dưới Tốn trên  quẻ Gia Nhân

Sấm rằng:

đang trong bùn đất để sót  mầm họa
bẩn thỉu rối loạn cung thất
Một Nam Một Nữ
cắt đứt đuổi đến nước người

Tụng rằng:

Trung thần Hiền sỹ chìm đắm cả
Trởi Mở Ra sự tốt đẹp, rối loạn lung tung
Như có lòng nghĩ có thể làm việc rõ ràng êm ả
Trời Đất chẳng còn thuộc về Vua Sáng trước nữa.

Kim Thánh Thán bàn rằng: tượng này chủ việc trong năm Thiên Khải thứ 7, yêu khí đầy trời, nguyên khí tổn thương, Một Nam Một Nữ là nói về Ngụy Yêm và Khách Thị, Khách Thị là vú nuôi của Minh Hy Tông, được gọi là Phụng Thánh Phu Nhân.

(hình vẽ: là Ngụy Trung Hiền và Khách Thị.

Sấm
Câu 1: chỉ việc bọn hoạn quan quen Ngụy Trung Hiền ở chốn ăn chơi cờ bạc.
Câu 3: chỉ Ngụy Trung Hiền và Khách Thị.
Câu 4: chỉ việc dâng nước mình cho ngoại bang.

Tụng
Câu 1: Trung, Hiền chỉ Ngụy Trung Hiền
Câu 2: có thể dịch là “trong thời Thiên Khải rối loạn lung tung”, chỉ niên hiệu Minh Thiên Khải.
Câu 3,4: ý là dù có suy nghĩ mong muốn sự tốt đẹp, thì nhà Minh cũng đến lúc cuối rồi. Trời Đất không còn thuộc về vua Minh nữa.

Đây là nói về thời Minh Hy Tông. Ngụy Trung Hiền, biệt danh Ngụy Yêm, là kẻ vô lại, ham cờ bạc đến mức bán vợ đợ con. Một lần bị đánh vì nợ tiền ở sòng bạc, đã dùng dao tự cắt tinh hoàn, nhưng vẫn còn một bên. Do quen biết bọn hoạn quan ở chốn ăn chơi trác táng, họ Ngụy mới chui được vào làm hoạn quan trong cung. Ngụy Yêm tằng tịu với Khách Thị, vú nuôi của Hy Tông, được Khách Thị yêu thích. Khách Thị tên là Khách Ấn Nguyệt, còn gọi là Khách Ba Ba, dung mạo đẹp đẽ, chồng là Hầu Ba Nhi. Sau khi chồng chết, tư tình với Ngụy Triều và Ngụy Trung Hiền. Ngụy Trung Hiền nổi tiếng về “tài nếm cứt để đoán sức khỏe”, về sau sinh nghiện!!!)

 第三十二象  乙未 巽下坎上   

讖曰
馬跡北闕 犬敖西方
八九數盡 日月無光

頌曰
楊花落盡李花殘 五色旗分自北來
太息金陵王氣盡 一枝春色占長安

聖嘆曰此象主李闖、張獻忠擾亂中原,崇禎投 繯梅山,福王偏安不久明祀遂亡。頌末句似指胡后,大有深意。

Phiên âm

Đệ tam thập nhị tượng  Ất Mùi  Tốn hạ Khảm thượng  Tỉnh

Sấm viết

Mã khiêu bắc Khuyết
Khuyển ngao Tây phương
Bát Cửu số tận
Nhật Nguyệt vô quang

Tụng viết

Dương hoa lạc tận Lý hoa tàn
Ngũ Sắc Kỳ phân tự Bắc lai
thái tức Kim Lăng vương khí tận
Nhất chi Xuân sắc chiếm Trường An

Thánh Thán viết: thử tượng chủ Lý Sấm, Trương Hiến Trung nhiễu loạn trung nguyên, Sùng Trinh đầu hoán Mai Sơn, Phúc Vương thiên an bất cửu, Minh tự toại vong, tụng mạt cú tự chỉ Hồ Hậu, đại hữu thâm ý. 

Tạm dịch

Tượng thứ 32  Ất Mùi  Tốn dưới Khảm trên  quẻ Tỉnh

Sấm rằng

dấu chân Ngựa ở Cửa Bắc
Chó chơi ở phía Tây
Tám Chín số hết
Nhật Nguyệt không sáng

Tụng rằng

hoa Dương rụng hết hoa Lý tàn
Năm Sắc Cờ chia ra từ phía Bắc sang
than vãn Kim Lăng Vương khí hết
một nhành Xuân sắc chiếm Trường An

Kim Thánh Thán bàn rằng: tượng này chủ việc Lý Sấm, Trương Hiến Trung nhiễu loạn Trung Nguyên, Sùng Trinh thắt cổ ở Mai Sơn, Phúc Vương lánh đi chẳng lâu, nhà Minh mất, câu cuối của bài tụng tựa như chỉ về Hồ Hậu, có ý tứ sâu xa.

(hình vẽ: Ngựa đứng trong Cửa, là chữ Mã  trong chữ Môn   là chữ Sấm , chỉ Sấm Vương Lý Tự Thành. 

Sấm
Câu 1: Khuyết là cửa tương tự như Môn, chữ Mã và chữ Môn là chữ Sấm.
Câu 2: Khuyển là một phần của chữ Hiến , chỉ Trương Hiến Trung.
Câu 3: 8 + 9 = 17, nhà Minh có 17 vua.
Câu 4: Nhật   Nguyệt  là Minh .

Tụng
Câu 1: chữ Dương có chữ Dịch , chữ Dịch  gồm chữ Nhật ở trên chữ Nguyệt, chữ Minh thì Nhật Nguyệt hai bên, chỉ nhà Minh; Lý là Lý Tự Thành,
Câu 2: Ngũ Sắc Kỳ chỉ quân nhà Thanh.
Câu 3: Giang Đông là đất phát tích nhà Minh.
Câu 4: như Kim Thánh Thán cho rằng, đây là chỉ về mẹ của Thuận Trị.)

 第三十三象  丙申 巽下兌上   大過      

讖曰
黃河水清 氣順則治
主客不分 地支無子

頌曰
天長白瀑來 胡人氣不衰
藩籬多撤去 稚子半可哀

聖嘆曰此象乃滿清入關之徵。反客為主殆亦氣數使然,非人力所能輓回歟。遼金而後胡人兩主中原,觥觥漢族對之得毋有愧.

Phiên âm

Đệ tam thập nhị tượng  Bính Thân  Tốn hạ Đoài thượng  Đại Quá

Sấm viết

Hoàng Hà thủy Thanh
khí Thuận tắc Trị
chủ khách bất phân
Địa Chi vô Tý

Tụng viết

Thiên Trường Bạch bộc lai
Hồ nhân khí bất suy
phiên ly đa triệt khứ
Trĩ Tử Bán khả ai

Thánh Thán viết: thử tượng nãi Mãn Thanh nhập quan chi trưng, phản khách vi chủ, đãi diệc khí số sử nhiên, phi nhân lực sở năng hoán hồi dư. Liêu, Kim nhi hậu, Hồ nhân lưỡng chủ Trung Nguyên, quang quang Hán tộc, đối chi đắc vô hữu quý.

Tạm dịch 

Tượng thứ  33  Bính Thân  Tốn dưới Đoài trên  quẻ Đại Quá

Sấm rằng:

sông Hoàng Hà nước Trong
khí Thuận tất Trị
chẳng chia chủ khách
Địa Chi không có Tý

Tụng rằng:

Trời Trắng Dài chợt đến
Người Hồ khí chẳng kém
phên dậu chặt bỏ hết
trẻ con một nửa khá buồn thay

Kim Thánh Thán bàn rằng: tượng này đưa ra việc Mãn Thanh vào đất Hán, từ khách trở thành chủ, sợ rằng đấy là khí số làm ra như vậy, không phải sức người có thể xoay chuyển được chăng? Sau Liêu, Kim, người Hồ hai lần làm chủ Trung Nguyên, người Hán cứng cỏi, đối với việc ấy chẳng có gì đáng thẹn cả.

(hình vẽ: trên thuyền cắm 8 lá cờ, chỉ Bát Kỳ; 10 người, chỉ việc nhà Thanh sau khi làm chủ Trung Nguyên, được 10 đời vua.

Sấm
Câu 1: Thanh, chỉ nhà Thanh
Câu 2: chỉ Thuận Trị
Câu 3: người nước ngoài thống trị người Hán
Câu 4: có 12 Địa Chi, không có chi Tý còn 11, nhà Thanh từ khi dựng nước đến khi kết thúc có 12 vua, kể từ khi đặt tên nước là Đại Thanh có 11 vua, chi Tý là chi đầu, ứng với vị vua đầu tiên  Nỗ Nhĩ Cáp Xích.

Tụng
Câu 1: nhà Thanh dựng nước ở vùng núi Trường Bạch.
Câu 3: đánh dẹp các Phiên Vương.
Câu 4: chỉ việc nhà Thanh bắt người Hán phải để tóc theo kiểu người Mãn, đầu cạo trọc một nửa trông như trẻ con chưa mọc tóc, đấy là một nỗi uất hận lớn của người Hán.)

 第三十四象  丁酉 巽下巽上   

讖曰
頭有髮 衣怕白
太平時 王殺王

頌曰
太平又見血花飛 五色章成裏外衣
洪水滔天苗不秀 中原曾見夢全非

聖嘆曰證已往之事易, 推未來之事難,然既證已往,似不得不推及將來。吾但願自此以後,吾所謂平治者,幸而中,吾所謂不平治者,幸而不中, 而吾或可告無罪矣, 此象疑遭水災或兵戎與天災共見,此一亂也

肖琴曰此象主太平天囻事蓋蓄髮衣紅建號後東王北王等卽見殺頌三四句且嵌入洪秀全三字圖讖均顯極

Phiên âm

Đệ tam thập tứ tượng  Đinh Dậu  Tốn hạ Tốn thượng  Tốn

Sấm viết

đầu Hữu Phát
y phạ Bạch
Thái Bình thời
Vương sát Vương

Tụng viết

Thái Bình hựu kiến huyết hoa phi
Ngũ Sắc chương thành lý ngoại y
Hồng thủy thao thiên miêu bất Tú
Trung Nguyên tằng kiến mộng Toàn phi

Thánh Thán viết chứng dĩ vãng chi sự dị, suy vị lai chi sự nan, nhiên ký chứng dĩ vãng, bất đắc bất suy cập tương lai, ngô đãn nguyện, tự thử dĩ hậu, ngô sở vị bình trị giả, hạnh nhi trúng, ngô sở vị bất bình trị giả, hạnh nhi bất trúng, nhi ngô hoặc khả cáo vô tội. Thử tượng nghi tao hỏa tai, hoặc binh nhung dữ thiên tai cộng kiến, thử nhất loạn dã.

Tiếu Cầm viết thử tượng chủ Thái Bình Thiên Quốc sự, cái súc phát y hồng, kiến hiệu hậu, Đông vương, Bắc vương đẳng tức kiến sát; tụng tam tứ cú kham nhập hồng tú toàn tam tự, đồ sấm quân hiển cực.

Tạm dịch

Sấm rằng

đầu Có Tóc
áo sợ Trắng
thời Thái Bình
Vua giết Vua

Tụng rằng

Thái Bình lại thấy máu tung tóe
Năm Màu rõ ràng thành màu của áo mặc ngoài
nước Lụt dâng lên tận Trời, lúa non không tốt
Trung Nguyên từng thấy giấc mơ bay Cả.

Kim Thánh Thán bàn rằng: chứng nhận việc đã qua thì dễ, suy đoán việc chưa đến là khó, nhưng, đã chứng nhận việc đã qua, không thể không suy đoán việc sẽ tới, tôi chỉ mong rằng từ đây về sau, khi tôi nói là bình trị, thì may mà đúng, khi tôi nói là chẳng bình trị, thì may mà chẳng đúng, có thể nói là tôi không có tội; tượng này ngờ rằng trải qua lũ lụt, hoặc cùng thấy cả chiến tranh và thiên tai, đây là thời loạn vậy.

Tiếu Cầm bàn rằng: tượng này chủ việc Thái Bình Thiên Quốc, như để tóc dài, mặc màu hồng, sau khi đặt niên hiệu, bọn Đông Vương và Bắc Vương bị giết, câu ba câu bốn bài tụng ăn khớp với ba chữ Hồng Tú Toàn, hình vẽ và lời sấm đều rất rõ ràng.

(hình vẽ: nước lụt là Hồng Thủy, chỉ Hồng Tú Toàn, mấy bộ xương người, chỉ người chết như rạ, có tài liệu ước tính có khoảng 40-50 triệu người chết.

Sấm
Câu 1: quân khởi nghĩa để tóc chứ không cạo theo quy định của triều đình nhà Thanh
Câu 2: không mặc màu trắng, đội khăn hồng, thắt đai hồng
Câu 3: Thái Bình chỉ Thái Bình Thiên Quốc
Câu 4: nội bộ lãnh đạo của Thái Bình Thiên Quốc lục đục, giết nhau

Tụng
Câu 2: quân Thái Bình Thiên Quốc chia làm 5 đội quân, mỗi đội một màu cờ.
Câu 3, 4: có chữ Hồng Tú Toàn; Tằng   một âm là Tăng, chỉ Tăng Quốc Phiên.)

 第三十五象  戊戍 震下兌上   

讖曰
西方有人 足踏神京
帝出不還 三台扶傾

頌曰
黑雲黯黯自西來 帝子臨河築金台
南有兵戎北有火 中興曾見有奇才

聖嘆曰此象疑有出狩事亦亂兆也.

肖琴曰此象主英法聯軍逼北京火焚圓明圜事咸豐帝既出狩熱河詔曾國藩提兵入衞而太平天國軍事未了兼籌並顧末句尤驗

Tạm dịch 

Đệ tam thập ngũ tượng  Mậu Tuất   Chấn hạ Đoái thượng   Tùy

Sấm viết
Tây phương hữu nhân
túc đạp thần kinh
đế xuất bất hoàn
tam đài phù khuynh

Tụng viết
hắc vân ảm ảm tự Tây lai
đế tử lâm Hà trúc kim đài
Nam hữu binh nhung Bắc hữu hỏa
trung hưng Tằng kiến hữu kì tài

Thánh Thán viết thử tượng nghi hữu xuất thú sự, diệc loạn triệu dã

Tiếu Cầm viết thử tượng chủ Anh Pháp liên Quân bức Bắc Kinh, hỏa phần Viên Minh viên sự, Hàm Phong đế ký xuất thú Nhiệt Hà, chiếu Tăng Quốc Phiên đề binh nhập vệ, nhi Thái Bình Thiên Quốc quân sự vị liễu, kiêm trù tịnh cố, mạt cú vưu nghiệm.

Tạm dịch

Tượng thứ 35   Mậu Tuất   Chấn dưới Đoái trên   quẻ Tùy

Sấm rằng:  

phía Tây có người
chân giẵm Thần Kinh
vua ra ngoài chẳng quay về
các quan lớn giúp việc

Tụng rằng:

mây đen mù mịt từ phía Tây lại
vua, con vua đến Sông xây điện đài bằng vàng
phía Nam có đánh nhau, phía Bắc có lửa cháy
vực dậy lúc giữa, Từng thấy có tài lạ

Kim Thánh Thán bàn rằng: tượng này ngờ có việc vua đi ra ngoài, là điềm loạn vậy.

Tiếu Cầm bàn rằng: tượng này chủ việc liên quân Anh, Pháp ép Bắc Kinh, đốt cháy vườn Viên Minh, vua Hàm Phong chạy ra Nhiệt Hà, mệnh cho Tăng Quốc Phiên đưa quân về bảo vệ, nhưng việc đánh Thái Bình Thiên Quốc chưa xong, xem xét tính toán cẩn thận, câu cuối ứng nghiệm lạ lùng.

(hình vẽ: chỉ quân Anh, Pháp chiếm đóng Bắc Kinh.

Sấm
Câu 1,2: người Tây chiếm Bắc kinh.
Câu 3: Hàm Phong chạy ra Nhiệt Hà và chết ở đấy.
Câu 4: Hàm Phong di chiếu cho 8 đại thần phụ chính Đồng Trị.

Tụng
Câu 1: chỉ liên quân Anh, Pháp.
Câu 2: Hàm Phong cùng vợ con chạy ra Nhiệt Hà.
Câu 3: phía Nam thì đánh dẹp Thái Bình Thiên Quốc, phía Bắc vườn Viên Minh bị đốt cháy.
Câu 4: Tằng, là chỉ Tăng Quốc Phiên.

Đây là nói về việc liên quân Anh Pháp tiến đánh Bắc Kinh năm 1860, đốt cháy vườn Viên Minh, vườn Thanh Y, quyển sách Sấm này được truyền ra ngoài, là do sự kiện này. Vua Hàm Phong cùng triều đình chạy ra Thừa Đức, năm sau qua đời ở cung điện Yên Ba Trí Sảng.)

 第三十六象  己亥 乾下巽上  小畜     

讖曰
纖纖女子 赤手禦敵
不分禍福 燈光蔽日

頌曰
雙拳旋轉乾坤 海內無端不靖
母子不分先後 西望長安入覲

聖嘆曰此象疑一女子能定中原,建都長安

肖琴曰此象主拳匪之亂讖頌均見红燈罩八卦旗及禍首端王 等甚明而兩宮西狩長安竟直指無絲毫隱惟覲字稍迷聖歎所料亦已匪易

Phiên âm

Đệ tam thập lục tượng  Kỷ Hợi  Kiền hạ Tốn thượng  Tiểu Súc

Sấm viết

tiêm tiêm nữ tử
xích thủ ngự địch
bất phân họa phúc
Đăng quang tế nhật

Tụng viết

song Quyền toàn chuyển Càn Khôn
hải nội vô Đoan bất tĩnh
mẫu tử bất phân tiên hậu
Tây vọng Trường An nhập cận

Thánh Thán viết thử tượng nghi nhất nữ tử năng định Trung Nguyên, kiến đô Trường An.

Tiếu Cầm viết thử tượng chủ Quyền Phỉ chi loạn, sấm tụng quân kiến Hồng Đăng trạo bát quái kỳ, cập họa thủ Đoan Vương đẳng, thậm minh nhi Lưỡng Cung tây thú Trường An, cánh trực chỉ vô ty hào ẩn, duy Cận tự sảo mê, Thánh Thán sở liệu diệc dĩ phi dị.

Tạm dịch

Tượng thứ 36  Kỷ Hợi  Kiền dưởi Tốn trên  quẻ Tiểu Súc

Sấm rằng:

người đàn bà nhỏ nhắn
tay không chống giặc
chẳng biết thế nào là họa thế nào là phúc
ánh sáng Đèn át cả mặt trời

Tụng rằng:

hai tay xoay chuyển cả Đất Trời
trong nước không chỗ nào yên ổn
mẹ con chẳng chia ra sau trước
trông về phía Tây Trường An vào hầu hạ bên cạnh

Kim Thánh Thán bàn rằng: tượng này nghi có một người đàn bà có khả năng ổn định được Trung Nguyên, dựng đô ở Trường An.

Tiếu Cầm bàn rằng: tượng này chủ việc Quyền Phỉ làm loạn, cả sấm và tụng đều thấy Đèn Hồng treo trên cờ Bát Quái, cùng với đầu sỏ của việc loạn, là các Đoan Vương, điều đó rất rõ ràng, hai cung phải chạy về phía Tây, Trường An, câu cuối đã chỉ thẳng ra không chút giấu giếm, chỉ có chữ Cận là hơi rắc rối, Thánh Thán không dễ đoán được.

(hình vẽ: Từ Hy chạy ra Tây An, đèn lồng là Chu Hồng Đăng của Nghĩa Hòa Đoàn, viên quan đang quỳ lạy là Cương Nghị.

Sấm
Câu 1: chỉ Từ Hy
Câu 2: xích thủ nghĩa là tay trần
Câu 3: chỉ việc Từ Hy chỉ nghĩ tới bản thân, không màng gì lợi ích quốc gia.
Câu 4: chỉ Chu Hồng Đăng

Tụng
Câu 1: là nói Từ Hy khuynh đảo triều chính.
Câu 2: Đoan là Đoan Quận Vương Tải Y
Câu 3: là Quang Tự và Từ Hy chết cùng lúc.
Câu 4: Thanh Triều chạy về Trường An.

Sau biến pháp của Quang Tự, Từ Hy thấy sinh mệnh chính trị bị uy hiếp, đã cấu kết với các thành phần thủ cựu trong triều, mưu phế bỏ Quang Tự, cái gọi là Kỷ Hợi Kiến Trữ己亥建储, lập con của Đoan Quận Vương Tải Y端郡王载漪, là Phổ Tuấn溥俊  làm Đại A Ca. Việc này bị phản đối kịch liệt trong toàn quốc nên không thành. Nhân phong trào Nghĩa Hòa Đoàn lên cao, quy tụ được nhiều người, Từ Hy, Cương Nghị, Tải Y mưu lợi dụng để đánh quân của 8 nước, trong rối loạn đổ tội cho Quang Tự nhằm phế truất. Liên 8 nước tiến đánh Bắc Kinh, Từ Hy chạy ra Trường An cùng triều đình và chết ở đó.
Sau có sử gia đã so sánh: Cương Nghị剛毅như Lâm Bưu林彪, bốn anh em trong họ là: Đôn Thân Vương Tải Liêm  惇親王载濂, Đoan Quận Vương Tải Y端郡王载漪, Phụ Quốc Công Tải Lan輔國公載瀾, Trang Thân Vương Tải Huân莊親王載勛, như lũ bốn tên.)

 第三十七象  庚子 震下巽上  

讖曰
漢水茫茫 不統繼統
南北不分 和衷與共

頌曰
水清終有竭 倒戈逢八月
海內竟無王 半凶還半吉

聖嘆曰此象雖有元首出現而一時未易平治亦一亂也

肖琴曰此象主辛亥革命事武昌起義宣統遜位繼之者爲民國緫統改立共和正體時間地點無一差忒且知無王號之稱而河山光復則吉軍閥割據則凶圕中畫一黎人手捧一元下浸洪水乃明指黎元洪名也.

Phiên âm

Đệ tam thập thất tượng  Canh Tý  Chấn hạ Tốn thượng  Ích

Sấm viết

Hán Thủy mang mang
bất Thống kế Thống
Nam Bắc bất phân
Hòa trung dữ Cộng

Tụng viết

thủy Thanh chung hữu kiệt
đảo qua phùng bát nguyệt
hải nội cánh vô Vương
bán hung hoàn bán cát

Thánh Thán viết thử tượng tuy hữu nguyên thủ xuất hiện, nhi nhất thời vị dị bình trị, diệc nhất loạn dã.

Tiếu Cầm viết thử tượng chủ Tân Hợi cách mệnh sự, Vũ Xương khởi nghĩa, Tuyên Thống độn vị, kế chi giả vi Dân Quốc Tổng Thống, cải lập Cộng Hòa chính thể, thời gian, địa điểm vô nhất sai thắc, thả tri vô vương hiệu chi xưng, nhi hà sơn quang phục tắc cát, quân phiệt cát cứ tắc hung, đồ trung họa nhất lê nhân, thủ bổng nhất nguyên hạ tẩm hồng thủy, nãi minh chỉ Lê Nguyên Hồng danh dã.


Tạm dịch

Tượng thứ 37  Canh Tý  Chấn dưới Tốn trên  quẻ Ích

Sấm rằng:

sông Hán Thủy mênh mông
chẳng phải Truyền Nối, (mà lại) tiếp theo Truyền Nối
Nam Bắc không chia rẽ
vui vẻ Hòa đồng cùng nhau.

Tụng rằng:

nước Trong cuối cùng cạn sạch
trở giáo gặp Tháng Tám
trong nước cuối cùng không còn Vua
nửa xấu lại nửa tốt

Kim Thánh Thán bàn rằng: tượng này tuy có nguyên thủ xuất hiện, mà một lúc chưa thể bình trị được, đây là thời loạn vậy.

Tiếu Cầm bàn rằng: tượng này chủ việc cách mạng Tân Hợi, khởi nghĩa Vũ Xương, vua Tuyên Thống thoái vị, tiếp theo là Tổng Thống Dân Quốc, dựng lên thể chế cộng hòa, thời gian, địa điểm không sai chút nào, vả lại biết rằng, không còn niên hiệu của vua, non sông sáng sủa trở lại là điều lành, quân phiệt cát cứ là điều dữ; trong hình vẽ một người đầu hình quả Lê, tay bưng Nguyên một cái đầu người, dìm xuống nước Lụt, là chỉ rõ tên Lê Nguyên Hồng vậy.

(hình vẽ: như Tiếu Cầm giải thích.

Sấm
Câu 1: Hán Thủy là chỉ Vũ Xương
Câu 2: tiếp theo Tuyên Thống không còn truyền ngôi nữa
Câu 3: chính sách không phân biệt sắc tộc
Câu 4: chỉ chế độ Cộng Hòa.

Tụng
Câu 1: sự kết thúc của nhà Thanh
Câu 2: khởi nghĩa Vũ Xương vào tháng 8 âm lịch, lính nhà Thanh đã phản lại triều đình, theo quân khởi nghĩa.
Câu 3: kết thúc chế độ quân chủ.

Đây là nói về khởi nghĩa Vũ Xương và cách mạng Tân Hợi.)

 第三十八象  辛丑 震下離上  噬嗑

讖曰
門外一鹿 群雄爭逐
劫及鳶魚 水深火熱

頌曰
火運開時禍蔓延 萬人後死萬人先
海波能使江河濁 境外何殊在目前

聖嘆曰此象兵禍起於門外有延及門內之兆

肖琴曰此象主一九一四年甲寅歐洲大戰事因中國參戰故有此象而畢竟在國境以外故曰門外云云而鳶魚水火畫盡近代禨械戰事.

Phiên âm

Đệ tam thập bát tượng   Tân Sửu   Chấn hạ Li thượng  Phệ Hạp

Sấm viết

Môn Ngoại nhất Lộc
quần hùng tranh trục
kiếp cập Diên Ngư  
Thủy thâm Hỏa nhiệt

Tụng viết

hỏa vận khai thời họa mạn diên
vạn nhân hậu tử vạn nhân tiên
hải ba năng sử giang hà trọc
cảnh ngoại hà thù tại mục tiền

Thánh Thán viết thử tượng binh họa khởi vu môn ngoại hữu diên cập môn nội chi triệu

Tiếu Cầm viết thử tượng chủ nhất cửu nhất tứ niên Giáp Dần, châu Âu đại chiến sự, nhân Trung Quốc tham chiến, cố hữu thử tượng nhi tất cánh tại quốc cảnh dĩ ngoại, cố viết môn ngoại vân vân, nhi diên ngư thủy hỏa họa tận cận đại cơ giới chiến sự.

Tạm dịch 

Tượng thứ 38   Tân Sửu   Chấn dưới Li trên  quẻ Phệ Hạp

Sấm rằng:

Ngoài Cửa có một con Hươu
Quần hùng tranh nhau đuổi
cướp đến cả Diều Hâu, Cá
Nước sâu Lửa nóng

Tụng rằng:

lúc Hỏa vận mở ra, tai họa triền miên
muôn người về sau chết, muôn người trước
sóng biển làm cho nước sông đục
cõi ngoài trước mắt có khác gì

Kim Thánh Thán bàn rằng: tượng này là điềm về họa chiến tranh bắt đầu từ bên ngoài, lan dần vào trong nước.

Tiếu Cầm bàn rằng: tượng này chủ việc đại chiến thế giới lần thứ nhất ở châu Âu vào năm Giáp Dần 1914, nhân việc Trung Quốc có tham chiến, vậy nên có hình tượng này, mà tất cả đều ở nước ngoài, vậy nên viết “ngoài cửa” .. v .. v.. , Diên, Ngư, Thủy, Hỏa là vẽ ra tất cả hình ảnh của chiến tranh bằng máy móc gần đây.

(hình vẽ: ngoài cửa xác chết ngổn ngang, chỉ chiến tranh ngoài Trung Quốc.

Sấm
Câu 1,2: quần hùng đuổi Hươu là chỉ việc tranh ngôi bá chủ.

Tụng
Chỉ việc Trung Quốc có tham chiến, tình hình rối ren không khác gì châu Âu.)

 第三十九象  壬寅 巽下兌上  

讖曰
鳥無足 山有月
旭初升 人都哭

頌曰
十二月中氣不和 南山有雀北山羅
一朝聽得金雞叫 大海沉沉日已過

聖嘆曰此象疑外夷爭鬥擾亂中原必至酉年始得平定也

肖琴曰此象主 中日戰事鳥無足而立于山上乃島字也山有月乃崩字也旭初升乃明指日本舉兵侵菲初則其勢甚銳迨至十二月八日太平洋戰事發生始如雀入羅網羅乃羅斯福也更至乙酉年甲申月正雞年金月之時日皇竟下詔降此象事跡乃在民二十至三十四年間與金陵塔劉碑讖文相合奇哉

Phiên âm 

Đệ tam thập cửu tượng  Nhâm Dần Tốn Hạ Đoài Thượng  Di

Sấm viết

Điểu Vô Túc 
Sơn hữu Nguyệt
Húc sơ thăng,
nhân đô khốc

Tụng viết

thập nhị nguyệt trung khí bất hòa
nam sơn hữu Tước bắc sơn La
nhất triêu thính đắc Kim Kê khiếu
đại hải trầm trầm Nhật dĩ qua

Thánh Thán viết thử tượng nghi ngoại di tranh đấu nhiễu loạn Trung Nguyên, tất chí Dậu niên thủy đắc bình định dã,

Tiếu Cầm viết thử tượng chủ Trung Nhật chiến sự, Điểu Vô Túc nhi lập vu Sơn thượng, nãi Đảo tự dã, Sơn hữu Nguyệt nãi Băng tự dã, Húc sơ thăng nãi minh chỉ Nhật Bản cử binh xâm Phi, sơ tắc kỳ thế thậm nhuệ, đãi chí thập nhị nguyệt bát nhật, Thái Bình Dương chiến sự phát sinh, thủy như tước nhập la võng, La nãi La Tư Phúc dã, canh chí Ất Dậu niên Giáp Thân nguyệt, chính Kê niên Kim nguyệt chi thời, Nhật Hoàng cánh hạ chiếu hàng, thử tượng sự tích nãi tại Dân nhị thập chí tam thập tứ niên gian, dữ Kim Lăng Tháp Lưu Bi Sấm Văn tương hợp kỳ tai.

Tạm dịch

Tượng thứ 39   Nhâm Dần  Tốn dưới Đoài trên  quẻ Di

Sấm rằng:

Chim không Chân
Núi có Trăng
Mặt Trời buổi sớm bắt đầu mọc
mọi người đều khóc

Tụng rằng:

trong tháng Mười Hai khí bất hòa
núi Nam có chim Sẻ, núi Bắc có Lưới
một sớm nghe được Gà Vàng gáy
biển lớn chìm dần Mặt Trời đã qua.

Kim Thánh Thán bàn rằng: tượng này ngờ rằng nước ngoài đánh nhau làm rối loạn Trung Nguyên, ắt đến năm Dậu bắt đầu được yên ổn.

Tiếu Cầm bàn rằng: tượng này chủ việc chiến tranh Trung-Nhật, Chim không chân, đậu trên Núi là chữ Đảo vậy, Núi có Trăng là chữ Băng vậy, Mặt Trời mới mọc rõ ràng là chỉ việc Nhật Bản đem quân xâm chiếm Phi-lip-pin, lúc ban đầu khí thế rất mạnh, đến mùng 8 tháng 12 mở màn chiến tranh Thái Bình Dương, (Nhật) bắt đầu như chim Sẻ chui vào lưới, La là La Tư Đức (Roosevelt) vậy, chuyển đến tháng Giáp Thân, năm Ất Dậu (9-1945), chính là tháng Kim năm con Gà, Nhật Hoàng cuối cùng đã phải xuống chiếu đầu hàng; tượng này là dấu vết của những việc trong năm Dân Quốc từ 20 đến 34, cùng với bài Sấm trong bia của Lưu Bá Ôn, tại tháp Kim Lăng, là tương tự, lạ thay.

(hình vẽ: Điểu   trên Sơn    là chữ Đảo chỉ Đảo Quốc, Mặt Trời mọc là Nhật Bản.

Sấm
Câu 1: chữ Điểu trong chữ Đảo không có 4 dấu chấm.
Câu 2: chữ Sơn   và chữ Nguyệt   thành chữ Băng   , nghĩa là sụp đổ.
Câu 3: chỉ quân phiệt Nhật dấy lên.

Tụng
Câu 1: chỉ trận Trân Châu cảng 8-12-1941
Câu 2: theo Tiếu Cầm thì Tước chỉ Nhật, La chỉ La Tư Đức (Roosevelt) tổng thống Mỹ. Có ý kiến cho rằng, Tước: trên chiến trường, phía Nam quân Nhật bị Mỹ dùng máy bay oanh tạc đánh lấn dần, và việc thả bom nguyên tử; La: phía Bắc đội quân Quan Đông bị Nga bao vây và tiêu diệt.
Câu 3; chỉ năm Dậu-1945
Câu 4: Nhật thua trận đầu hàng vô điều kiện.)

 第四十象  癸卯 巽下艮上       

讖曰
一二三四 無土有主
小小天罡 垂拱而治

頌曰
一口東來氣太驕 腳下無履首無毛
若逢木子冰霜渙 生我者猴死我雕

聖嘆曰此象有一李姓能服東夷而不能圖長治久安之策卒至旋治旋亂有獸活禽死之意也

Phiên âm

Đệ tứ thập tượng   Quý Mão   Tốn hạ Cấn thượng   Cổ

Sấm viết

Nhất Nhị Tam Tứ
vô thổ hữu chủ
tiểu tiểu Thiên Cương
thùy củng nhi trị

Tụng viết

nhất khẩu Đông Lai khí thái kiêu
Cước Hạ Vô Lý thủ vô Mao
nhược phùng Mộc Tử băng sương hoán
sinh ngã giả Hầu tử ngã Điêu

Thánh Thán viết thử tượng hữu nhất Lý tính năng phục Đông Di, nhi bắt năng đồ trường trị cửu an chi sách, tốt chí toàn trị toàn loạn, hữu thú hoạt cầm tử chi ý dã.

Tạm dịch

Tượng thứ 40   Quý Mão   Tốn dưới Cấn trên   quẻ Cổ

Sấm rằng:

Một Hai Ba Bốn
không đất nào có chủ
Thiên Cương nhỏ bé
không cần làm gì cũng yên ổn

Tụng rằng:

một miệng phía Đông Lại khí thế rất kiêu ngạo
Chân Không Đi Giày đầu không có Tóc
nếu gặp Con của Cây băng sương tan vỡ
sinh ra ta là Khỉ, giết chết ta là Điêu

Kim Thánh Thán bàn rằng: tượng này có một người họ Lý, có thể làm cho Đông Di phải phục tùng, nhưng không có sách lược làm cho trị an được lâu dài, cuối cùng đến nỗi chợt trị chợt loạn, ý là có việc thú sống chim chết vậy.

(có ý kiến cho rằng
hình vẽ: ba đứa trẻ chỉ việc Hoa Kỳ làm trung gian hòa giải giữa Quốc Dân Đảng và Đảng cộng sản; tay cầm vật trông như bánh xe, chỉ mỗi bên đều có ý đồ và phương hướng khác nhau. Đứa trẻ để tóc quả đào chỉ Mao Trạch Đông.

Sấm
Câu 1: chỉ việc chia rẽ, như thời quân phiệt cát cứ, 1 + 2 = 3, 3 x 4 = 12, 3 + 12 = 15, chỉ 14 vùng cát cứ và chính phủ Quốc Dân Đảng. Có ý kiến cho là chỉ việc “lưỡng ngạn tứ địa”, tức là eo biển Đài Loan, các vùng lãnh thổ: Lục Địa, Đài Loan, Hương Cảng, Ma Cao.
Câu 2: đại loạn
Câu 3, 4: cuối cùng sẽ ổn định. Có ý kiến “tiểu tiểu Thiên Cương: là chỉ Tưởng Giới Thạch, "thùy củng nhi trị” là chỉ việc ổn định Đài Loan.

Tụng
Câu 1: Đông là Mao Trạch Đông, Lai là Chu Ân Lai.
Câu 2: dưới Chân Không Đi Giày tức là chân trần, là Xích Cước 赤脚 , Xích là màu đỏ, gần giống với Hồng là đỏ nhạt, chỉ Hồng Quân, Mao là chỉ Mao Trạch Đông. 
Câu 3: chữ Mộc và chữ Tử   là chữ Lý , chỉ Lý Tông Nhân李宗仁 , sau khi quân đội Dân Quốc thất bại nặng nề, Tưởng Giới Thạch từ chức Tổng Thống ngày 21-1-1949, Lý Tông Nhân nhậm chức Tổng Thống vào hôm sau 22-1-1949, sau đó chính phủ Dân Quốc đã thất bại hoàn toàn trên đại lục và rút ra Đài Loan, nên nói băng sương tan vỡ.
Câu 4: sinh ra ta là Khỉ, Hầu là Khỉ gần giống với Viên là Vượn, chỉ Viên Thế Khải, với sự ủng hộ của Viên Thế Khải, chính phủ Dân Quốc được thành lập, có người cho rằng Hầu  tức là Tôn đồng âm với Tôn chỉ Tôn Trung Sơn; giết chết ta là Điêu, trong chữ Điêu có chữ Chu , chỉ Chu Ân Lai, nhậm chức Trung Ương Quân Ủy Đại Tổng Tham Mưu Trưởng vào tháng 11-1948, cùng Mao Trạch Đông trực tiếp lãnh đạo, chỉ huy ba chiến dịch lớn dẫn tới sự sụp đổ của chính phủ Dân Quốc trên đại lục, đấy là chiến dịch Liêu Thẩm, Bình Tân, Hoài Hải. Lại Chu Ân Lai tự Tường Vũ 翔宇-bay liệng khắp phương trời , chính là đặc tính của chim Điêu.
Lý Tông Nhân qua đời năm vào 0,0 giờ ngày 31-1-1969 tại Bắc Kinh. Ngày 9-11-1978, nói chuyện tại Trường Đảng Trung Ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc, bộ trưởng Bộ Tổ Chức Trung Ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc, Hồ Diệu Bang, đã nêu câu hỏi về trùm mật vụ Khang Sinh của Trung Quốc, trong đó đã nói về nghi án Lý Tông Nhân qua đời do trúng độc. Hồ nói “Chúng tôi khẳng định rằng, Lý Tông Nhân chết là do trúng độc mạn tính … Lý Tông Nhân cuối cùng chết bởi bàn tay của ai, đương nhiên có nghi ngờ rất lớn đối với Khang Sinh - 我们肯定了李宗仁是慢性中毒死亡 李宗仁到底死在谁的手中, 当然康生有最大嫌疑.”)

 第四十一象  甲辰 離下離上   

讖曰
天地晦盲 草木繁殖
陰陽反背 上土下日

頌曰
帽兒須戴血無頭 手弄乾坤何日休
九十九年成大錯 稱王只合在秦州

聖嘆曰此象一武士擅握兵權,致肇地覆天翻之禍,或一白姓者平之。


Phiên âm

Đệ tứ thập nhất tượng  Giáp Thìn  Ly hạ Ly thượng  Ly

Sấm viết

Thiên Địa hối manh
Thảo Mộc phồn thực
Ấm Dương phản bối
thượng Thổ hạ Nhật

Tụng viết
mạo nhi tu đái Huyết Vô Đầu
thủ lộng Càn Khôn hà nhật hưu
Cửu Thập Cửu niên thành đại thác
xưng vương chỉ hợp tại Tần Châu

Thánh Thán viết thử tượng nhất vũ sỹ thiện ác binh quyền, trí triệu địa phúc thiên phiên chi họa, hoặc nhất Bạch tính giả bình chi,

Tạm dịch

Tượng thứ  41   Giáp Thìn  Ly hạ Ly thượng  quẻ Ly

Sấm rằng:

Trời Đất tối tăm mờ mịt
Cây Cỏ sinh sôi nảy nở  
Âm Dương quay ngược lại
Đất ở trên Mặt Trời ở dưới

Tụng rằng:

cái mũ nên đội, Máu Không Có Đầu
tay đùa giỡn cả Trời Đất ngày nào mới dừng
Chín Mươi Chín năm thành lầm lẫn lớn
xưng vua chỉ hợp ở tại Tần Châu

Kim Thánh Thán bàn rằng: tượng này là một võ sĩ nắm bình quyến, vậy nên bắt đầu gây ra cái hoạ đảo lộn cả Trời Đất, hoặc là người họ Bạch bình ổn lại tình hình.

(hình vẽ: một võ sỹ diễu võ dương oai, giẵm chân lên quả cầu, một chân dướn lên, tư thế dọa dẫm, đầu đội mũ có cài hoa, thể hiện sự hung hăng, kiêu căng, thích khoe khoang; dưới cổ áo, ngay giữa ngực có chữ Mao chỉ Mao Trạch Đông.

Sấm
Câu 1: chỉ thời đại hôn ám
Câu 2: Cây Cỏ sinh sôi sẽ thành rừng, rừng là Lâm chỉ Lâm Bưu. Lại, Cỏ chỉ kẻ tiểu nhân, ý là bọn gian ác được thời dấy lên.
Câu 3: Nhật Nguyệt phản bối, là Âm Dương đứng sai chỗ, tiểu nhân tại vị, quân tử tại dã, kẻ gian nắm quyền, người ngay ở ngoài đồng hoang.
Câu 4: Mặt Trời bị Đất che khuất, sự minh bạch bị đè nén, dập tắt; người có học bị bắt về nông thôn để học các “đại ca” nông dân, trong cách mạng văn hóa.

Tụng:
Câu 1: cần phải đội mũ, nếu không bị “chụp mũ” hữu khuymh, phản cách mạng … sẽ bị đổ máu mà bản thân không biết lý do – không đầu mối; chữ Huyết   không có đầu là chữ Mãnh  , chữ Trạch   phía trên cùng là chữ Mãnh, cần đội mũ máu không đầu, là cần đội chữ Mãnh, chữ Trạch  vẫn dùng thay cho chữ Trạch   trong Mao Trạch Đông.
Câu 2: đảo lộn hết phải trái, đúng sai
Câu 3: 9 + 10 + 9 = 28, Mao Trạch Đông cầm quyền trong 28 năm, từ năm 1949 đến 1976, ở đây là lấy năm 1949 là năm đầu, năm 1976 là năm cuối, theo lối thông thường trong cách tính niên hiệu.
Câu 4: ý là giống Tần Thủy Hoàng. Lại chỉ căn cứ Diên An, thuộc đất Tần.

Thời gian Mao Trạch Đông đương quyền, với đại nhảy vọt, cách mạng văn hóa … làm khoảng 40 triệu người chết đói, sau đó là đấu đá, tiêu diệt lẫn nhau. Khi buộc phải nhận khuyết điểm trong cách mạng văn hóa, dưới sức ép của 7000 đảng viên từ cấp huyện tham gia đại hội, Mao vẫn tiếp tục ngụy biện, Mao tự cho rằng bản thân đúng 7 phần, sai chỉ 3 phần. Ngạn ngữ tàu có câu “tam phần nhân sự thất phần Thiên-ba phần ở  người làm việc, bảy phần ở trời”, ba phần sai thì là người sai cả.)

 第四十二象  乙巳 艮下離上   

讖曰
美人自西來 朝中日漸安
長弓在地 危而不危

頌曰
西方女子琵琶仙 皎皎衣裳色更鮮
此時渾跡居朝市 鬧亂君臣百萬般

聖嘆曰此象疑一女子當國,服色尚白,大權獨攬,幾危社稷,發現或在卯年,此始亂之兆也。

Phiên âm

Đệ tứ thập nhị tượng  Ất Tị Cấn hạ Ly thượng  Lữ

Sấm viết

Mỹ Nhân tự Tây lai
triều trung nhật tiệm an
Trường Cung tại địa
nguy nhi bất nguy

Tụng viết

Tây phương nữ tử Tỳ Bà tiên
hiệu hiệu y thường sắc cánh tiên
thử thời hỗn tích cư triều thị
náo loạn quân thần bách vạn ban

Kim Thánh Thán: thử tượng nghi nhất nữ tử đương quốc, phục sắc thượng bạch, đại quyền độc lãm, kỷ nguy xã tắc, phát hiện hoặc tại Mão niên, thử thủy loạn chi triệu dã.

Tạm dịch

Tượng thứ 42  Ất Tị   Cấn dưới Li trên  quẻ Lữ

Sấm rằng:

Người Đẹp đến từ phía Tây
trong triều đình dần dần yên ổn
Giương Cung tại mặt đất
nguy mà chẳng nguy

Tụng rằng:

con gái phương Tây, vị tiên đàn Tỳ bà
quần áo sạch sẽ vẻ tươi tắn
lúc ấy, dấu vết lẫn lộn giữa chợ búa và triều đình
quấy rối toàn bộ triều đình từ vua đến quan


Kim Thánh Thán bàn rằng: tượng này ngờ rằng có một nữ nhân đảm đương việc nước, ưa mặc quần áo màu trắng, riêng nắm quyền lớn, làm nguy nan cho xã tắc, thấy, hoặc ở năm Mão bắt đầu có điềm loạn vậy.

(hình vẽ: người đàn bà đẹp, ăn diện, ôm đàn Tỳ Bà, chỉ Giang Thanh, một ca sỹ, diễn viên, sau làm chính trị, vợ của Mao Trạch Đông. Trường Cung để trên đất chỉ Trương Xuân Kiều. Con Thỏ, theo Kim Thánh Thán là chỉ năm Mão, có ý cho rằng chỉ Diêu Văn Nguyên, Thỏ hay nhảy tức là Khiêu   bên cạnh chữ Nữ   là chữ Diêu ; như Thỏ là chỉ mặt Trăng, tức là Âm, là tiểu nhân, là gian tà …

Sấm
Câu 1: Giang Thanh là người theo lối sống buông thả, nổi loạn kiểu phương Tây, chứ không theo truyền thống Trung Quốc, có ý cho rằng Giang từ Diên An, tức là phía Tây.
Câu 2: làm vợ Mao, dần dần chui sâu leo cao trên con đường làm chính trị, mặc dù một phần giới lãnh đạo chóp bu trong đảng cộng sản Trung Quốc phản đối, ngăn cản gay gắt.
Câu 3: chữ Cung   hợp với chữ Trường   là chữ Trương   chỉ Trương Xuân Kiều  張春橋
Câu 4: việc lũng đoạn của “lũ bốn tên” cuối cùng cũng dẹp bỏ được, chưa dẫn đến sụp đổ.

Tụng
Câu 1: chỉ Giang Thanh là diễn viên; lại, chữ Tỳ Bà 琵琶  có bốn chữ Vương , chỉ王洪文, gồm chỉ “lũ 4 tên” do Giang làm thủ lĩnh.
Câu 3: lúc ở chốn chợ búa, sau lọt vào triều đình.
Câu 4: đại loạn trong đảng cộng sản Trung Quốc.

Mặc dù bị các lãnh đạo cao cấp như Chu Ân Lai, Đặng Tiểu Bình, Diệp Kiếm Anh … phản đối kịch liệt, cuối cùng Mao đã đưa được “vợ yêu” vào bộ chính trị, tiếp theo là nắm đại quyền. Đến năm 1975-Ất Mão, lần đầu tiên cái gọi là “tứ nhân bang” được Mao dùng trong hội nghị bộ chính trị ngày 3-5-1975, để chỉ Giang Thanh và ba người bang Thượng Hải. Cuộc chiến căng thẳng của Đặng Tiểu Bình với Tứ Nhân Bang lên tới đỉnh điểm, Mao không ưa gì Đặng, nhưng Đặng có sự ủng hộ rộng rãi, nhất là quân đội, Mao không thể “làm thịt” như Lưu Thiếu Kỳ, Bành Đức Hoài, Hạ long … Vì vậy, Mao mới dùng đến “đòn gió” này.)  

 第四十三象  丙午 巽下離上   

讖曰
君非君 臣非臣
始艱危 終克定

頌曰
黑兔走入青龍穴 欲盡不盡不可說
有外邊根樹上 三十年中子孫結

聖嘆曰此象疑前象女子亂國未終,君臣出狩,有一傑出之人為之底定,然必在三十年後.

Phiên âm

Đệ tứ thập tam tượng   Bính Ngọ Tốn hạ Ly thượng  Đỉnh

Sấm viết

quân phi quân
thần phi thần
thủy gian nguy
chung khắc định

Tụng viết

Hắc Thố tẩu nhập Thanh Long huyệt
dục tận bất tận bất khả thuyết
duy hữu ngoại biên căn thụ thượng
Tam Thập niên trung tử tôn kết

Thánh Thán viết thử tượng nghi tiền tượng nữ tử loạn quốc vị chung, quân thần xuất thú, hữu nhất kiệt xuất chi nhân vi chi để định, nhiên tất tại tam thập niên hậu

Tạm dịch

Sấm rằng:

vua mà chẳng phải là vua
tôi mà chẳng phải là tôi  
thời gian đầu gian nan nguy khốn
sau được yên định.

Tụng rằng:

con Thỏ Đen chạy vào hang Rồng Xanh
muốn hết sạch mà chẳng hết sạch, chẳng thể nói được
chỉ có trên gốc rễ phía bên ngoài
trong 30 năm con cháu sẽ kết thúc


Kim Thánh Thán bàn rằng: tượng này nghi ngờ người đàn bà ở tượng  trước làm loạn đất nước (việc ấy) chưa xong, vua tôi ra ngoài, có một người kiệt xuất làm cho yên ổn, nhưng ắt hẳn ở tại 30 năm sau đó.

(hình vẽ: hai người đang bước lên là Đặng   đồng âm với Đặng , một người bé là Tiểu , hai người ngang hàng là Bình , trên đất bằng cũng là Bình, chỉ Đặng Tiểu Bình鄧小平.

Sấm
Câu 1,2: chính là Đặng Tiểu Bình, người chưa làm nguyên thủ quốc gia của Trung Quốc lần nào, nhưng lại là người quyết định và làm việc của nguyên thủ. Tương tự chúa Trịnh ở ta.
Câu 3: cuộc đời chính trị của Đặng nhiều thăng trầm.
Câu 4: cuối cùng đạt được thành công.

Tụng
Câu 1: Thỏ Đen chỉ Diêu Văn Nguyên và lũ bốn tên, cũng là chỉ năm Mão 1975; Rồng Xanh là năm Giáp Thìn, Đặng sinh năm Giáp Thìn 1904, cũng là chỉ năm Thìn 1976; Đặng bị hạ bệ lần thứ 3, chiều ngày 15-1-1976 tức ngày 15-12 năm Ất Mão, sau buổi lễ tưởng niệm Chu Ân Lai do Đặng Tiểu Bình chủ trì, Mao Trạch Đông chỉ thị cho Uông Đông Hưng, dẫn bộ đội 8341 đến bắt và biệt giam Đặng.
Câu 2: rất nhiều người muốn tiêu diệt Đặng nhưng không làm được. Ngày 2-2-1976 các địa phương phát tán Báo Chữ To phản đối Giang Thanh bắt giữ Chu (thực ra đã chết), Đặng. Ngày 4-4-1976 tức là ngày mùng 5 tháng 3 Bính Thìn, là ngày Thanh Minh tảo mộ, hơn 2 triệu người đã tụ tập ở Thiên An Môn với lý do tưởng niệm Chu Ân Lai, bộ chính trị phải họp gấp, Hoa Quốc Phong nói “Đặng rất ác độc, đã trực tiếp công kích Mao chủ tịch và trung ương đảng”, bí thư Bắc Kinh Ngô Đức nói “xem ra việc này đã được lập kế hoạch từ trước, Đặng từ 1974 đến 1975 đã chuẩn bị dư luận, việc hôm nay, rõ ràng là phản cách mạng”. Hội nghị Bộ chính trị chỉ ra rằng, Đặng là người đứng sau chỉ huy việc này. Ngày 05-4-1976, tại Bắc Kinh tiếp tục mít tinh tưởng niệm truy điệu Chu, phản đối lũ bốn tên, ủng hộ Đặng, người tham dự yêu cầu gặp Đặng. Ngày 07-4-1976, bộ chính trị họp, không có sự tham gia của Đặng, đã ra quyết định tước hết mọi chức vụ của Đặng nhưng không khai trừ đảng.
Câu 3: sau Đặng từ ngoài, được tái bổ nhiệm, thực ra vì lãnh đạo bất tài, không có ai làm được việc, đành triệu tập Đặng.

Đặng Tiểu Bình được coi là một nhà cải cách của Trung Quốc, với cái gọi là “xây dựng chủ nghĩa xã hội kiểu Trung Quốc!!!”. Cuộc đời chính trị của Đặng có nhiều thăng trầm. Năm 1933, Đặng lần đầu bị đánh đổ, do phe phái của Vương Minh, mục tiêu phê bình đường lối của Mao, được gọi là sự kiện “Đặng, Mao, Tạ, Cổ”, tức là gồm Đặng Tiểu Bình, Mao Trạch Đông, Tạ Duy Tuấn, Cổ Bách. Năm 1966, lần thứ hai Đặng bị đánh đổ, trong cách mạng văn hóa do Mao phát động, nhằm chống lại Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình. Năm 1967, Đặng bị tước mọi chức vụ, bắt đi lao động ở Giang Tây. Gia đình Đặng bị bức hại, em trai Đặng là Thục Bình tự sát. Năm 1968, con trai Đặng là Phác Phương nhảy từ tầng 5 nhảy xuống đất tự tử nhưng không chết, sau thành phế nhân. Lần thứ ba như đã nói ở trên.)

 第四十四象  丁未 坎下離上  未濟       

讖曰
日月麗天 群陰懾服
百靈來朝 雙羽四足

頌曰
中國而今有聖人 雖非豪傑也周成
四夷重譯稱天子 否極泰來九國春

聖嘆曰此象乃聖人復生四夷來朝之兆一大治也.

Phiên âm

Đệ tứ thập tứ tượng  Đinh Mùi  Khảm hạ Ly thượng   Vị Tế

Sấm viết

Nhật Nguyệt lệ thiên
quần âm nhiếp phục
Bách Linh lai triều
song Vũ tứ Túc

Tụng viết

Trung Quốc nhi kim hữu Thánh nhân
tuy phi hào kiệt dã chu thành
Tứ Di trùng dịch xưng Thiên Tử
Bĩ cực Thái lai Cửu quốc Xuân

Tạm dịch

Tượng thứ 44  Đinh Mùi  Khảm dưới Ly trên   quẻ Vị Tế

Sấm rằng :

Mặt Trời, Mặt Trăng đẹp đẽ trên Trời
quần Âm sợ hãi chịu theo
Trăm Họ chầu về
hai Lông bốn Chân

Tụng rằng:

Trung Quốc ngày nay có Thánh nhân
dẫu không phải là hào kiệt cũng làm nên trọn vẹn
các xứ sở xa xôi cũng gọi là vua
hết vận Bĩ đến vận Thái, chín nước đều như mùa Xuân

Kim Thánh Thán bàn rằng: tượng này là Thánh nhân sinh trở lại, điềm bốn phía đều chầu về, một thời đại rất yên ổn vậy.

(từ đây trở đi là tương lai, rất khó phán đoán.
Hình vẽ: người đeo cung có thể là chữ Dẫn 𢎢 =
Sấm
Câu 3: Bách Linh có hai nghĩa: 1. Là trăm Thần, Cô Hồn cũng gọi là Bách Linh-ma đói. 2. Trăm họ, tức là muôn dân.
Câu 4: có thể là chữ Yến  
Tụng
Câu 3: Trùng Dịch: là tiếng nói phải phiên dịch hai lần, ý là ở xa.
Câu 4: Chín Nước: chưa rõ ý.)

 第四十五象  戊申 坎下艮上   

讖曰
有客西來 至東而止
木火金水 洗此大恥

頌曰
炎運宏開世界同 金烏隱匿白洋中
從此不敢稱雄長 兵氣全銷運已終

聖嘆曰此象于太平之世復見兵戎,當在海洋之上,自此之後,更臻盛世矣.

Phiên âm

Đệ tứ thập ngũ tượng   Mậu Thân  Khảm hạ Cấn thượng  Mông

Sấm viết

hữu khách Tây lai
chí Đông nhi chỉ
Mộc Hỏa Kim Thủy
tẩy thử đại sỉ

Tụng viết

Viêm vận hoành khai thế giới đồng
Kim Ô ẩn nặc Bạch Dương trung
tòng thử bất cảm xưng hùng trường
binh khí toàn tiêu vận dĩ chung

Thánh Thán viết thử tượng vu thái bình chi thế, phục kiến binh nhung, đương tại hải dương chi thượng, tự thử chi hậu cánh trăn thịnh thế hỹ.

Tạm dịch

Tượng thứ 45   Mậu Thân  Khảm dưới Cấn trên  quẻ Mông

Sấm rằng:

có khách từ phía Tây lại
đến Đông thì dừng
Mộc Hỏa Kim Thủy
rửa nỗi nhục lớn này

Tụng rằng:

vận Phương Nam mở rộng thế giới cùng nhau
Mặt Trời náu mình trong Biển Trắng
từ nay chẳng dám xưng là hùng trưởng nữa
binh khí chảy thành nước cả, vận đã đến lúc cuối

Kim Thánh Thán bàn rằng: tượng này sau một thời gian yên ổn, sẽ lại thấy việc có chiến tranh, có thể ở trên biển, từ đó về sau đến thời thịnh trị vậy.

(hình vẽ: hai người cầm giáo hướng về phía mặt trời, có thể là Đông Phạt 東伐 .

Sấm
Câu 1: Khách là chỉ người nước ngoài, đây là ở phía Tây.
Câu 3: Mộc Hỏa Kim Thủy, đây là ngũ hành tương sinh còn khuyết hành Thổ, tên quốc gia.
Câu 4: sẽ thành công trong việc trả thù.

Tụng
Câu 1: Viêm nghĩa là nóng nực, phiếm chỉ phía Nam.
Câu 2: Kim Ô = Quạ Vàng, chỉ Mặt Trời. Chữ Kim  và chữ Bạch là chữ Bạc .
Câu 3: Hùng Trưởng là đứng đầu một khu vực, Trung Quốc không dám hung hăng nữa.
Câu 4: vũ khí bị hủy diệt hết, không còn “đồ chơi” nữa, đành chịu thua.)

第四十六象  己酉 坎下巽上   

讖曰
黯黯陰霾 殺不用刀
萬人不死 一人難逃

頌曰
有一軍人身帶弓 只言我是白頭翁
東邊門裡伏金劍 勇士後門入帝宮

聖嘆曰此象疑君王昏瞶一勇士仗義興兵為民請命故曰萬人不死一人難逃.

Phiên âm

Đệ tứ thập lục tượng   Kỷ Dậu   Khảm hạ Tốn thượng   Hoán

Sấm viết

ảm ảm âm mai,
sát bất dụng đao,
vạn nhân bất tử,
nhất nhân nan đào

Tụng viết

hữu nhất quân nhân thân đới cung,
chỉ ngôn ngã thị bạch đầu ông,    
Đông biên môn lý phục kim kiếm,
dũng sĩ hậu môn nhập đế cung

Thánh Thán viết thử tượng nghi quân vương hôn quý, nhất dũng sĩ trượng nghĩa hưng binh, vi dân thỉnh mệnh, cố viết vạn nhân bất tử nhất nhân nan đào.

Tạm dịch

Tượng thứ 46  Kỷ Dậu   Khảm dưới Tốn trên   quẻ Hoán

Sấm rằng:

tối tăm mịt mù
giết chết mà chẳng dùng đến gươm đao
muôn người chẳng chết
một người khó mà trốn được.

Tụng rằng:

Có một người lính đeo cung trên người,
chỉ nói ta là ông già đầu bạc,
bên trong cửa phía Đông dấu gươm vàng
dũng sĩ ở cửa sau vào cung điện của nhà vua.

Kim Thánh Thán bàn rằng: tượng này ngờ là quân vương hôn ám tối tăm, một dũng sỹ vì nghĩa khí dấy binh, thay mặt dân đề xuất yêu cầu, vậy nên  nói rằng muôn người chẳng chết một người cũng khó mà trốn chạy được.

(Bạch Đầu Ông còn là một loài chim) 

第四十七象  庚戍 坎下乾上  

讖曰
偃武修文 紫薇星明
匹夫有責 一言為評

頌曰
無王無帝定乾坤 來自田間第一人
好把舊書多讀到 義言一出見英明

聖嘆曰此象有賢君下士豪傑來歸之兆蓋輔助得人而帝不居德王不居功蒸蒸然有無為而治之盛此一治也.


Đệ tứ thập thất tượng Canh Tuất   Khảm hạ Kiền thượng  Tụng

Sấm viết

yển vũ tu văn,
Tử Vi tinh minh,
thất phu hữu trách,
nhất ngôn vi bình

Tụng viết

vô vương vô đế định Càn Khôn
lai tự điền gian đệ nhất nhân
hiếu bả cựu thư đa độc đáo
nghĩa ngôn nhất xuất kiến anh minh.

Thánh Thán viết thử tượng hữu hiền quân hạ sĩ hào kiệt lai quy chi triệu, cái phụ trợ đắc nhân, nhi đế bất cư đức, vương bất cư công, chưng chưng nhiên hữu vô vi nhi trị chi thịnh, thử nhất trị dã.

Tạm dịch

Tượng thứ 47  Canh Tuất   Khảm dưới Càn trên  quẻ Tụng

Sấm rằng:

dừng việc võ sửa việc văn
sao Tử Vi sáng sủa
người bình thường cũng có trách nhiệm (với non sông)
một lời (cũng đủ để) bình luận

Tụng rằng:

không phải là vua , không phải là chúa xếp đặt Càn Khôn
đến từ đồng ruộng, người thứ nhất
yêu thích giữ lấy sách cũ, phần nhiều đều đọc đến
lời nói nghĩa khí vừa nói ra là thấy sự tài giỏi sáng suốt

Kim Thánh Thán bàn rằng: tượng này là điềm có vua hiền, tôi giỏi, hào kiệt tụ hội, vì có người giúp việc, mà vua chẳng nhận là có đức độ, chúa chẳng nhận là có công lao, ngùn ngụt vậy, chẳng cần làm gì cũng yên ổn, đầy đủ, một thời đại an bình vậy.     


(sao Tử Vi chỉ ngôi vua, Kim Thánh Thán ý muốn nói đến sự thịnh trị như trong Đạo Đức Kinh đã nói đến)

第四十八象  辛亥   離下乾上   同人    

讖曰
卯午之間 厥象維離
八牛牽動 雍雍熙熙

頌曰
水火既濟人民吉 手執金戈不殺賊
五十年中一將臣 青青草自田間出

聖嘆曰此象疑一朱姓與一苗姓爭奪朝綱,而朱姓有以德服人之化,龍蛇相鬥想在辰巳之年,其建都或在南方

Phiên âm

Đệ tứ thập bát tượng  Tân Hợi  Ly hạ Kiền thượng  Đồng Nhân

Sấm viết

Mão Ngọ chi gian
quyết tượng duy Ly
Bát Ngưu khiên động,
ung ung hy hy

Tụng viết

Thủy Hỏa Ký Tế nhân dân cát,
thủ chấp kim qua bất sát tặc,
Ngũ Thập niên trung nhất tướng thần,
thanh thanh Thảo tự Điền gian xuất

Thánh Thán viết thử tượng nghi nhất Chu tính dữ nhất Miêu tính tranh triều cương, nhi Chu tính hữu dĩ đức phục nhân chi hóa, Long Xà tương đấu, tưởng tại Thìn Tị chi niên, kỳ kiến đô hoặc tại Nam phương.

Tạm dịch

Tượng thứ 48  Tân Hợi  Ly hạ Kiền thượng  Đồng Nhân

Sấm rằng:

vào khoảng Mão Ngọ
đây là hình tượng chỉ có Lìa Nhau
dắt Tám con Trâu đi
hoà hợp vui vẻ.

Tụng rằng:

Thủy Hỏa đã qua (đấy là điều) tốt cho nhân dân
Tay cầm cái Qua vàng mà chẳng giết giặc
trong năm mươi năm một bày tôi
Cỏ xanh xanh mọc ra từ Cánh Đồng

Kim Thánh Thán bàn rằng: tượng này ngờ rằng một người họ Chu và một người họ Miêu tranh giành nắm giữ triều đình, họ Chu lấy đức độ cảm hóa mọi người, (hình vẽ) Rồng Rắn đánh nhau, nghĩ rằng là năm Thìn Tỵ, dựng lên kinh đô hoặc ở phương Nam.

(hình vẽ: Rồng Rắn chỉ Thìn Tỵ, Lửa chỉ phương Nam

Sấm
Câu 1: giữa khoảng Mão Ngọ là Thìn Tỵ
Câu 2: Ly với nghĩa quẻ Ly, chỉ phía Nam
Câu 3: chữ Bát và chữ Ngưu  thành chữ Chu

Tụng
Câu 4: chữ Thảo   viết trên đầu với chữ Điền  là chữ Miêu


Tượng 48 này tương tự câu 73 đến câu 76 của Càn Khôn Vạn Niên Ca)

 第四十九象  壬子 坤下坤上   

讖曰
山谷少人口 欲剿失其巢
帝王稱弟兄 紛紛是英豪

頌曰
一個或人口內啼 分南分北分東西
六爻占盡文明見 棋布星羅日月齊

聖嘆曰久分必合,久合必分,理數然也,然有文明之象,當不如割據者之紛擾耳

Phiên âm

Đệ tứ thập cửu tượng  Nhâm Tý  Khôn hạ Khôn thượng  Khôn

Sấm viết

sơn Cốc thiểu Nhân Khẩu
dục Tiễu thất kỳ Sào,
đế vương xưng đệ huynh,
phân phân thị anh hào.

Tụng viết
nhất Cá Hoặc Nhân Khẩu nội đề
phân Nam, phân Bắc, phân Đông Tây
Lục Hào chiêm tận văn minh kiến
kỳ bố tinh la Nhật Nguyệt tề

Thánh Thán viết cửu phân tất hợp, cửu hợp tất phân, lý số nhiên dã, nhiên hữu văn minh chi tượng, đương bất như cát cứ giả chi phân nhiễu nhĩ.

Tạm dịch

Tượng thứ 49  Nhâm Tý  Khôn dưới Khôn trên  quẻ Khôn

Sấm rằng:

Thung trong núi ít Người
muốn chặn đánh (thành ra) mất tổ
vua gọi nhau là anh em
rối ren đều là anh hùng hào kiệt

Tụng rằng:

một Cái Hoặc một Người kêu khóc bên trong mồm
chia Nam chia Bắc chia Đông Tây,
xem hết thảy cả sáu hào thấy được rõ ràng
bày ra khắp chốn cùng Mặt Trời Mặt Trăng

Kim Thánh Thán bàn rằng: chia ra lâu ắt hẳn sẽ hợp lại, hợp lâu ắt hẳn sẽ phân chia ra, lý số vốn vậy, thế nên sáng sủa đẹp đẽ, nên chẳng bằng chia ra chiếm cứ mỗi người một chỗ, rối ren quấy quả vậy.

(hình vẽ: Tám cái Đao  là Bát Đao   tức là chữ Phân nghĩa là chia ra, lại có ý là chia làm 8.

Sấm
Câu 1: chữ Cốc mà thiếu chữ Nhân chữ Khẩu thì còn chữ Bát 
Câu 2: chữ Tiễu bỏ đi chữ Sào còn lại chữ Đao ; hợp với chữ Bát ở câu 1 thành chữ Phân, ý giống hình vẽ.
Câu 3,4: ngang cơ nhau.

Tụng
Câu 1: chữ Khẩu cho chữ Hoặc vào thành chữ Quốc , cho chữ Nhân vào thành chữ Tù ; ra khỏi tù sẽ dựng nước.
Câu 3: quẻ Khôn xem đến hào trên cùng Thượng Lục, lời hào龍戰于野,其血玄黃 -Long chiến vu dã, kỳ huyết huyền hoàng-rồng đánh nhau ở cánh đồng, máu tóe loe khắp trời đất;  chỉ đánh nhau ác liệt, sau mới ổn định; 用六利永貞 dụng lục lợi vĩnh trinh.
Câu 4: cát cứ phân liệt.)

 第五十象  癸醜 震下坤上  

讖曰
水火相戰 時窮則變
貞下起元 獸貴人賤

頌曰
虎頭人遇虎頭年 白米盈倉不值錢
豺狼結隊街中走 撥盡風雲始見天

聖嘆曰此象遇寅年遭大亂君昏臣暴下民無生息之日又一亂也

Phiên âm

Đệ ngũ thập tượng  Quý Sửu Chấn hạ Khôn thượng  Phục

Sấm viết

Thủy Hỏa tương chiến,
thời cùng tắc biến,
Trinh hạ khởi Nguyên,
thú quý nhân tiện

Tụng viết

Hổ đầu nhân ngộ Hổ đầu niên
Bạch Mễ doanh thương bất trị tiền,
sài lang kết đội nhai trung tẩu,
bát tận phong vân thủy kiến Thiên

Thánh Thán viết thử tượng ngộ Dần niên tao đại loạn, quân hôn thần bạo, hạ dân vô sinh tức chi nhật, hựu nhất loạn dã.

Tạm dịch

Tượng thứ 50   Quý Sửu  Chấn dưới Khôn trên  quẻ Phục

Sấm rằng:

Nước Lửa đánh nhau
đến lúc cuối  ắt sẽ thay đổi
bền bỉ mãi rồi sẽ lại bắt đầu
loài muông thì quý loài người thì hèn mọn.

Tụng rằng:

người đầu Hổ gặp đầu năm Hổ
gạo trắng đầy kho, chẳng đáng bao nhiêu tiền
loài lang sói kết thành bè đi trên đường phố
quét sạch mây mù bắt đầu thấy trời xanh

Kim Thánh Thán bàn rằng: tượng này năm Dần gặp nạn lớn, vua hôn ám bầy tôi tàn bạo, dân đen hằng ngày không còn đường sinh sống, lại là một thời loạn vậy.

(hình vẽ: một mãnh thú trông tựa như Hổ.

Sấm
Câu 3: theo như quẻ Càn, đầy đủ 4 đức, Nguyên Hanh Lợi Trinh, ắt sau Trinh lại là Nguyên, Nguyên nghĩa là đầu tiên; dưới chữ Trinh là chữ Nguyên có thể là chữ Chân .

Tụng
Câu 1: chữ Hổ   đầu với chữ Nhân là chữ Trĩ  𠊤 có nghĩa là giá trị, giống chữ Trị  ở câu 2.)

第五十一象  甲寅 兌下坤上    

讖曰
陰陽和 化以正
坤順而感 後見堯舜

頌曰
誰云女子尚剛強 坤德居然感四方
重見中天新氣象 卜年一六壽而康

聖嘆曰此象乃明君得賢后之助化行國內重見昇平又一治也

Phiên âm

Đệ ngũ thập nhất tượng  Giáp Dần  Đoài hạ Khôn thượng  Lâm

Sấm viết 

âm dương hòa, 
hóa dĩ chính, 
Khôn thuận nhi cảm, 
hậu kiến Nghiêu Thuấn

Tụng viết

thùy vân nữ tử thượng cương cường, 
Khôn đức cư nhiên cảm tứ phương, 
trùng kiến trung thiên tân khí tượng, 
bốc niên Nhất Lục thọ nhi khương.

Thánh Thán viết thử tượng nãi minh quân đắc hiền hậu chi trợ, hóa hành quốc nội, trùng kiến thăng bình, hựu nhất trị dã.

Tạm dịch

Tượng thứ 51  Giáp Dần  Đoài dưới Khôn trên  quẻ Lâm

Sấm rằng:

âm dương hòa
hóa thành chính đáng 
đàn bà nhu thuận mà động lòng người 
sau thấy được vua Nghiêu Thuấn.


Tụng rằng: 

ai (bảo) rằng đàn bà ưa cứng rắn mạnh mẽ 
đức nhu hòa rõ ràng làm động lòng người khắp nơi 
lại thấy được hình ảnh mới mẻ giữa bầu trời
bói xem làm vua yên ổn trong Một Sáu

Kim Thánh Thán bàn rằng: tượng này là vua sáng được vợ giỏi giúp sức, làm cho non nước trở lại thanh bình, lại là một thời đại yên ổn vậy. 

(hình vẽ: vua và vợ

Tụng
Câu 4: 1 + 6 = 7, 70 năm.)

第五十二象  乙卯 乾下坤上   

讖曰
慧星乍見 不利東北
踽踽何之 瞻彼樂國

頌曰
欃槍一點現東方 吳楚依然有帝王
門外客來終不久 乾坤再造在角亢

聖嘆曰此象主東北被夷人所擾有遷都南方之兆角亢南極也其後有明君出驅逐外人再慶昇平

Phiên âm

Đệ ngũ thập nhị tượng  Ất Mão  Càn hạ Khôn thượng   Thái

Sấm viết

Tuệ tinh sạ kiến
bất lợi Đông Bắc
củ củ hà chi
chiêm bỉ lạc quốc

Tụng viết

Sàm Sanh nhất điểm hiện Đông phương,
Ngô Sở y nhiên hữu đế vương    
môn ngoại khách lai chung bất Cửu,
Càn Khôn tái tạo tại Giác Cang

Thánh Thán viết thử tượng chủ Đông Bắc bị Di nhân sở nhiễu, hữu thiên đô Nam phương chi triệu, Giác Cang Nam cực dã, kỳ hậu hữu minh quân xuất, khu trục ngoại nhân, tái khánh thăng bình.

Tạm dịch

Tượng thứ 52  Ất Mão  Càn dưới Khôn trên   quẻ Thái

Sấm rằng:

chợt thấy sao Chổi
chẳng lợi phía Đông Bắc
sao lại lủi thủi một mình
nhìn xem nó đất nước vui vẻ

Tụng rằng:

một ngôi sao Chổi hiện ra ở phương Đông
vùng Ngô Sở rõ ràng có vua
khách đến ngoài cửa, cuối cùng chẳng (ở) lâu
Trời Đất làm lại ở vùng sao Giác sao Cang

Kim Thánh Thán bàn rằng: tượng này chủ phía Đông Bắc bị người Di quấy rối, có điềm dời kinh đô về phương Nam, sao Giác Cang là phía Nam vậy, về sau có vua sáng xuất hiện, xua đuổi người ngoài, lại vui  yên bình

(hình vẽ: môt người đội mũ có vật trang trí thò ra, chữ Nhân có nét Phảy 丿 có thể là chữ Cửu .

Giống Sấm Trạng nói về sao chổi.)

第五十三象  丙辰 乾下震上   大壯      

讖曰
闕中天子 禮賢下士
順天休命 半老有子

頌曰
一個孝子自西來 手握乾綱天下安
域中兩見旌旗美 前人不及後人才

聖嘆曰此象有一秦姓名孝者登極關中控制南北或以秦為國號此一治也

Phiên âm

Đệ ngũ thập tam tượng  Bính Thìn  Càn hạ Chấn thượng  Đại Tráng

Sấm viết

Quan Trung thiên tử
lễ hiền hạ sĩ
thuận Thiên hưu mệnh,
Bán Lão hữu Tử

Tụng viết

nhất cá Hiếu tử tự Tây lai
thủ ác Càn cương thiên hạ an
Vực trung lưỡng kiến tinh kỳ mỹ
tiền nhân bất cập hậu nhân tài

Thánh Thán viết thử tượng hữu nhất Tần tính danh Hiếu giả, đăng cực Quan Trung, khống chế Nam Bắc, hoặc dĩ Tần vi quốc hiệu, thử nhất trị dã.

Tạm dịch

Tượng thứ  53  Bính Thìn  Càn dưới Chấn trên  Đại Tráng

Sấm rằng: 
vua ở Giữa Cửa Quan
lấy lễ hậu để đãi kẻ sĩ ở dưới
thuận theo Mệnh Trời  
sắp về Già mới có Con.

Tụng rằng:

có một đứa con thảo đến từ phía Tây
nắm quyền lãnh đạo thiên hạ yên lành
trong cõi hai lần thấy cờ quạt đẹp đẽ
người trước chẳng theo kịp được cái tài của người sau.

Kim Thánh Thán bàn rằng: tượng này có một người họ Tần tên Hiếu, lên ngôi ở Quan Trung, khống chế Nam Bắc, hoặc là lấy tên nước là Tần.

(hình vẽ: ba người là Tam Nhân , một bông lúa nằm dưới đất là Hòa , hợp lại là chữ Tần .

Sấm
Câu 1: Quan Trung là đất Tần
Câu 4: nửa chữ Lão với chữ Tử  là chữ Hiếu .

Tụng
Câu 1: chữ Hiếu; chữ Tây

Câu 3: chữ Vực, là Tây Vực. Tây Vực và Quan Trung đều đẹp đẽ.)

第五十四象  丁巳 乾下兌上   

讖曰
磊磊落落 殘棋一局
啄息茍安 雖笑亦哭

頌曰
不分牛鼠與牛羊 去毛存鞟尚稱強
寰中自有真龍出 九曲黃河水不黃

聖嘆曰此象有實去名存之兆或如周末時號令不行尚頒正朔亦久合必分之徵也

Phiên âm

Đệ ngũ thập tứ tượng  Đinh Tỵ Càn hạ Đoài thượng   Quải

Sấm viết

lỗi lỗi lạc lạc
tàn kỳ nhất cục
trác tức cẩu an
tuy tiếu diệc khốc

Tụng viết

bất phân Ngưu Thử dữ Ngưu Dương,
khứ mao tồn khuếch thượng xưng cường,
hoàn trung tự hữu chân long xuất,
cửu khúc Hoàng Hà thủy bất hoàng

Thánh Thán viết thử tượng hữu thực khứ danh tồn chi triệu, hoặc vi Chu mạt thời, hiệu lệnh bất hành, thượng ban chính sóc, diệc cửu hợp tất phân chi trưng dã.

Tạm dịch

Tượng thứ 55  Đinh Tỵ   Càn dưới Đoái trên   quẻ Quải

Sấm rằng:

giỏi giỏi giang giang
tàn cờ một cuộc
ngừng mổ tạm yên
tuy cười (mà) cũng khóc

Tụng rằng:

chẳng phân biệt Trâu Chuột cùng Trâu Dê
cạo lông lấy da, thích khoe mạnh
trong đời hẳn có chân chúa xuất hiện
chin khúc Hoàng Hà nước chẳng vàng

Kim Thánh Thán bàn rằng: tượng này có điềm bỏ cái thực giữ cái danh, hoặc giống cuối đời Chu, mệnh lệnh chẳng thể thi hành, thích ban ra lịch, cũng là cái biểu hiện của việc hợp lâu ắt chia lìa vậy.

(hình vẽ: 5 đứa trẻ đang chăn một con vật đầu Chuột, sừng Dê, thân Trâu.

Tụng
Câu 1: không cần biết là cái gì
Câu 2: cốt có bộ da, ý là vỏ bọc để khoe mẽ.)

第五十五象  戊午 乾下坎上   

讖曰
懼則生戒 無遠勿屆
水邊有女 對日自拜

頌曰
覬覦神器終無用 翼翼小心有臣眾
轉危為安見節義 未必河山是我送

聖嘆曰此象有一石姓或劉姓一統中原有一姓汝者謀篡奪之幸有大臣盡忠王室戒謹惕勵一切外侮不滅自滅雖亂而亦治也

Phiên âm

Đệ ngũ thập ngũ tượng  Mậu Ngọ  Càn hạ Khảm thượng  Nhu

Sấm viết

cụ tắc sinh giới
vô viễn vật giới
Thủy biên hữu Nữ
đối nhật tự bái

Tụng viết

ký du Thần Khí chung vô dụng
dực dực tiểu tâm hữu thần chúng
chuyển nguy vi an kiến tiết nghĩa
vị tất hà sơn thị ngã tống

Thánh Thán viết thử tượng hữu nhất Thạch tính hoặc Lưu tính nhất thống trung nguyên, hữu nhất tính Nhữ giả, mưu soán đoạt chi, hạnh hữu đại thần tận trung vương thất, giới cẩn dịch lệ, nhất thiết ngoại vũ bất diệt tự diệt, tuy loạn nhi diệc trị dã.

Tạm dịch

Tượng thứ 55  Mậu Ngọ  Càn dưới Khảm trên  quẻ Nhu

Sấm rằng:

sợ hãi ắt sinh ra dè chừng
không xa chớ đến
ven Nước có Đàn Bà
trông mặt trời mà lạy.

Tụng rằng:

mong hão về đồ dùng của Thần, cuối cùng không làm được gì
là bề tôi giúp đỡ bên cạnh cần để ý cẩn thận
chuyển từ nguy thành yên ổn, mới thấy tiết nghĩa
chưa hẳn sông núi là do ta đưa đi

Kim Thánh Thán bàn rằng: tượng này có một người họ Lưu hoặc họ Thạch làm chủ Trung Nguyên, có một người họ Nhữ mưu đoạt lấy, may là có đại thần hết lòng trung với nhà vua, đề phòng cẩn thận lo sợ gắng sức, hết thảy bên ngoài lấn áp không cần tiêu diệt cũng tự bị diệt vong, tuy loạn rồi cũng yên ổn.

(hình vẽ: một người đang đỡ cành Thạch Lựu có hai quả.

Sấm
Câu 3: chữ Thủy và chữ Nữ là chữ Nhữ .

Tụng
Câu 4: Thần Khí ý chỉ loại vũ khí mạnh mẽ khác thường.)

第五十六象  己未 坤下坎上   

讖曰
飛者非鳥 潛者非魚
戰不在兵 造化游戲

頌曰
海疆萬里盡雲煙 上迄雲霄下及泉
金母木公工幻弄 干戈未接禍連天

聖嘆曰此象行軍用火即戰不在兵之意頌云海疆萬里則戰爭之烈不僅在于中國

Phiên âm

Đệ ngũ thập lục tượng  Kỷ Mùi  Khôn hạ Khảm thượng  Tỷ

Sấm viết

phi giả phi Điểu,
tiềm giả phi Ngư,
chiến bất tại binh,
tạo hóa du hý

Tụng viết

hải cương vạn lý tận vân yên
thượng hất vân tiêu hạ cập tuyền
Kim Mẫu, Mộc Công công huyễn lộng
can qua vị tiếp họa liên thiên

Thánh Thán viết thử tượng hành quân dụng hỏa, tức chiến bất tại binh chi ý, "Tụng vân hải cương vạn lý", tắc chiến tranh chi liệt, bất cận tại vu Trung Quốc dã.

Tạm dịch:

Tượng thứ 56  Kỷ Mùi  Khôn dưới Khảm trên   quẻ Tỷ

Sấm rằng:

bay mà chẳng phải là chim
lặn mà chẳng phải là cá
đánh nhau chẳng bằng lính
tạo hoá rong chơi đùa giỡn

Tụng rằng:

muôn dặm biên giới biển cuối đường chân trời
trên đến tận mây dưới đến tận suối
Kim Mẫu, Mộc Công làm ra sự huyễn hoặc đùa bỡn
giáo mác chẳng chạm nhau mà tai họa từ ngày này sang ngày khác

Kim Thánh Thán bàn rằng: tượng này ý là dùng lửa để đánh chứ không dùng lính, như bài Tụng viết “muôn dặm biên giới biển”, ắt chiến tranh rất dữ dội, chẳng chỉ riêng ở tại Trung Quốc vậy.

(hình vẽ: Chim là máy bay, Cá là tàu ngầm, Mồm người phun lửa là chỉ các loại đại bác, tên lửa tầm xa.

Sấm
Câu 1,2: chỉ máy bay, tàu ngầm

Tụng
Câu 3: Kim Mẫu là Tây Vương Mẫu, Mộc Công là Đông Hoa Đế Quân.


Chỉ chiến tranh thời nay, dùng vũ khí tầm xa.)

第五十七象  庚申 兌下兌上   

讖曰
物極必反 以毒制毒
三尺童子 四夷讋服

頌曰
坎離相尅見天倪 天使斯人弭殺機
不信奇才產吳越 重洋從此戢兵師

聖嘆曰此象言吳越之間有一童子,能出奇制勝,將燎原之火撲滅淨盡,而厄運自此終矣,又一治也.


Phiên âm

Đệ ngũ thập thất tượng  Canh Thân  Đoài hạ Đoài thượng  Đoài

Sấm viết

vật cực tất phản,
dĩ độc chế độc,
tam xích đồng tử,
tứ di triệp phục

Tụng viết

Khảm Ly tương khắc kiến thiên nghê
Thiên sử tư nhân nhị sát cơ,
bất tín kỳ tài sản Ngô Việt,
trùng dương tòng thử tập binh sư

Thánh Thán viết thử tượng ngôn Ngô Việt chi gian hữu nhất đồng tử, năng xuất kỳ chế thắng, tương liệu nguyên chi hỏa phác diệt tịnh tận, nhi ách vận tự thử chung hỹ, hựu nhất trị dã.

Tạm dịch

Tượng thứ 57  Canh Thân  Đoài dưới Đoài trên  Đoài

Sấm rằng:

sự vật đến cuối ắt hẳn quay ngược lại
dùng độc trị độc
đứa trẻ cao ba thước
bốn xung quanh sợ hãi phục tùng

Tụng rằng:

Nước Lửa khắc nhau thấy đứa trẻ của nhà Trời
Trời sai người ấy dừng bộ máy giết chóc lại
chẳng tin là tài lạ sinh ra ở đất Ngô Việt
các chốn biển xa từ đây dẹp bỏ quân đội

Kim Thánh Thán bàn rằng: tượng này nói ở trong vùng đất nước Ngô Việt có một đứa bé, có khả năng xuất kỳ chế thắng, trừ bỏ sạch sẽ nguyên liệu làm ra lửa (nhiên liệu), thời vận khốn ách kết thúc từ đây vậy, lại là một thời bình yên.  


(có vẻ như có một phát minh đột phá, mang tính bước ngoặt trong việc phát triển vũ khí.)

第五十八象  辛酉 坎下兌上   

讖曰
大亂平 四夷服
稱兄弟 六七國

頌曰
烽煙淨盡海無波 稱帝稱王又統和
猶有煞星隱西北 未能遍唱太平歌

聖嘆曰此象有四夷來王海不揚波之兆惜乎西北一隅尚未平靖猶有遺憾又一治

Phiên âm

Đệ ngũ thập bát tượng  Tân Dậu  Khảm hạ Đoài thượng  Khốn

Sấm viết

đại loạn bình
tứ di phục
xưng huynh đệ
Lục Thất quốc

Tụng viết

phong yên tịnh tận hải vô ba
xưng đế xưng vương hựu thống hòa
do hữu sát tinh ẩn Tây Bắc,
vị năng biến xướng thái bình ca

Thánh Thán viết thử tượng hữu tứ di lai vương, hải bất dương ba chi triệu, tích hồ Tây Bắc nhất ngung thượng vị bình tĩnh, do hữu di hám, hựu nhất trị dã

Tạm dịch

Tượng thứ 58  Tân Dậu  Khảm dưới Đoài trên  quẻ Khốn

Sấm rằng:

bình được loạn lớn
bốn phía nghe theo
gọi nhau là anh em
Sáu Bảy nước

Tụng rằng:

khói lửa tan sạch biển lặng sóng
xưng vua xưng chúa đều hoà thuận
bởi có sát tinh nấp ở phương Tây Bắc
khắp nơi không thể ca bài ca thái bình

Kim Thánh Thán bàn rằng: tượng này chỉ việc vua các nước xung quanh đến, là điềm biển không dậy sóng, tiếc rằng góc Tây Bắc chưa được yên tĩnh, vẫn còn thù hận, lại là một thời đại yên ổn.


(tiếp theo của Tượng 57, mầm mống xung đột vẫn còn)

第五十九象  壬戍 艮下兌上  

讖曰
無城無府 無爾無我
天下一家 治臻大化

頌曰
一人為大世界福 手執籤筒拔去竹
紅黃黑白不分明 東南西北盡和睦

聖嘆曰此乃大同之象人生其際飲和食德當不知若何愉快也惜乎其數已終其或反本歸原還於混噩歟

Phiên âm

Đệ ngũ thập cửu tượng  Nhâm Tuất  Cấn hạ Đoài thượng  Hàm

Sấm viết

vô thành vô phủ
vô nhĩ vô ngã
Thiên hạ nhất gia
trị trăn đại hóa

Tụng viết

Nhất Nhân vi Đại thế giới phúc
thủ chấp thiêm Đồng bạt khứ Trúc,
Hồng Hoàng Hắc Bạch bất phân minh,
Đông Nam Tây Bắc tận hòa mục.

Thánh Thán viết thử nãi đại đồng chi tượng, nhân sinh kỳ tế, ẩm hòa thực đức, đương bất tri nhược hà du khoái dã, tích hồ kỳ số dĩ chung, kỳ hoặc phản bản quy nguyên, hoàn vu hỗn ngạc dư.

Tạm dịch

Tượng thứ 59   Nhâm Tuất  Cấn dưới Đoài trên  quẻ Hàm

Sấm rằng:

không thành trì, không dinh quan
không anh không tôi
khắp chốn một nhà
sự yên ổn tốt đẹp lớn lao

Tụng rằng:

Một Người làm việc lớn, là phúc của cõi đời này
tay cầm Ống đựng thẻ, bỏ thẻ Tre đi
Hồng Vàng Đen Trắng chẳng rõ ràng
Đông Nam Tây Bắc tất cả đều hòa hợp thân thiết

Kim Thánh Thán bàn rằng: đây là tượng đại đồng, mọi người cùng sống hòa hợp đức độ, chẳng biết tại sao lại được sướng thế, chỉ tiếc rằng số đã hết, hoặc là quay trở về nguồn gốc, trở lại thời hỗn độn, sợ là vậy chăng?

(hình vẽ: một người là Nhất Nhân, là chữ Đại; tay trái cầm ống đựng quẻ thẻ, tay phải cầm một cái thẻ tre bỏ đi, là chữ Đồng.

Sấm
Chỉ thế giới đại đồng

Tụng
Câu 1: chữ Nhất và chữ Nhân là chữ Đại
Câu 2: chữ Đồng lại bỏ đi chữ Trúc là chữ Đồng  
Câu 3: Hồng Vàng Đen Trắng là còn màu Xanh chưa nói tới, là chữ Thanh đồng âm với chữ Thanh nghĩa là trong sạch.


Đây là nói về thời đại tất cả đều chung một nhà.)

第六十象  癸亥 坤下兌上   

讖曰
一陰一陽 無終無始
終者自終 始者自始

頌曰
茫茫天數此中求 世道興衰不自由
萬萬千千說不盡 不如推背去歸休

聖嘆曰一人在前一人在後有往無來無獨有偶以此殿圖其寓意至深遠,蓋無象之象勝於有象我以不解解之著者有知當亦許可

Phiên âm

Đệ lục thập tượng   Quý Hợi  Khôn hạ Đoài thượng   Tụy

Sấm viết

nhất âm nhất dương
vô chung vô thủy
chung giả tự chung
thủy giả tự thủy

Tụng viết

mang mang Thiên số thử trung cầu
Thế Đạo hưng suy bất tự do
vạn vạn thiên thiên thuyết bất tận
bất như thôi bối khứ quy hưu

Thánh Thán viết nhất nhân tại tiền, nhất nhân tại hậu, hữu vãng vô lai, vô độc hữu ngẫu, dĩ thử điện đồ, kỳ ngụ ý chí thâm viễn, cái vô tượng chi tượng thắng vu hữu tượng, ngã dĩ bất giải giải chi, trước giả hữu tri đương diệc hứa khả.

Tạm dịch

Tượng thứ 60  Quý Hợi  Khôn dưới Đoài trên   quẻ Tụy

Sấm rằng:

một Âm một Dương
không cuối không đầu
cuối là tự cuối
đầu là tự đầu

Tụng rằng:

mênh mang số Trời, mong tìm ở trong đó
Thế Đạo thịnh suy chẳng phải là tự do không phép tắc
ngàn ngàn vạn vạn không thể nói hết được
chẳng bằng đẩy lưng đi về nghỉ

Kim Thánh Thán bàn rằng: một người trước một người sau, chỉ đi mà không trở lại, không riêng một mình mà có đôi, lấy đấy để chứa đựng ý tứ sâu xa, cái không có hình tượng lại hơn cái có hình tượng, ta cũng lấy việc không giải thích để giải thích vậy, người làm ra có biết, hẳn cũng khứng cho.

(hình vẽ: hai người đẩy lưng nhau, mọi thứ vẫn tiếp tục vận động không dừng.

Sấm
Câu 1,2: là ý không thể biết được đâu đầu tiên, đâu là cuối cùng
Câu 3,4: ở một thời điểm nào đó, bảo rằng đấy là chỗ cuối thì nó là chỗ cuối, bảo rằng đấy là chỗ bắt đầu thì nó là chỗ bắt đầu.

Tụng
Câu 2: ý là việc gì cũng có lý do cả.

(Xét Tượng thứ nhất và Tượng 60 này, có thể thấy được ý của Lý và Viên, Vũ Trụ bao la, dù tu hành đắc đạo như họ, cũng chỉ biết được một phần nào mà thôi, tương tự như Trình Quốc Công nói “bấy giờ Thiên Vận xoay vần nơi nao”.)

Hết

Ghi chú: 
-Tiếu Cầm là người chú giải thêm, trong bản in năm Dân Quốc 36
-Trong ngoặc đơn là tham khảo các nguồn khác

Sơ lược tiểu sử của Kim Thánh Thán (1608-1661)

Kim Thánh Thán sinh năm Mậu Thân 1608 tại Tô Châu-Trung Quốc. Vốn tên là Kim Nhân Thụy, lại có tên là Kim Thái, tự Thánh Thán (cũng có người nói vốn tên là Trương Bình), tự nói là Thiên Thai Tông-Lặc Am Pháp Sư chuyển thế, nhân đó Trai Hiệu là Lặc Am. Bản tính cậy tài ngạo vật, say mê Phật học, nửa tăng nửa tục, có sở trường phụ đồng giáng bút.
Tuổi trẻ gia cảnh nghèo khó cô độc, chín tuổi học ở trường tư, khắc khổ phấn đấu, có tư tưởng riêng, rất thích đọc sách, say mê truyện Thủy Hử. Đến tuổi thành niên, thi đỗ tú tài, tốn kém tiền bạc, nên thường túng thiếu. Kim Thánh Thán dốc lòng tin Phật Thánh, thích đọc kinh Phật, kết giao với sư sãi, giỏi phụ đồng giáng bút, giới sỹ đại phu tôn xưng là Lặc Công hoặc Lặc Sư. Năm 20 tuổi bắt đầu phụ đồng giáng bút ở Ngô Huyện, tự nói là thu được 30 vong hồn con gái làm đệ tử. Từ năm 1635 đến 1637 là thời gian hoạt động mạnh, từng đến nhà các sỹ đại phu: Diệp Thiệu Viên, Tiền Khiêm Ích, Diêu Hy Mạnh, Đới Nhữ Nghĩa để phụ đồng tiên giáng bút, đã viết ra các áng văn chương đẹp đẽ, xúc động lòng người, nói đúng hết tâm tư của người đứng lễ, được Diệp Thiệu Viên và mọi người sùng tín. Về sau không nghĩ đến việc làm quan, bỏ cả sách vở. Năm 1641 bình luận Thủy Hử, năm 1656 bình luận Tây Sương Ký.
Năm 1661, nhân sỹ Tô Châu phẫn hận vì huyện lệnh mới của Ngô Huyện hung ác, tham lam. Sau bị vu là làm loạn, chống lại việc thu thuế, làm kinh động vong linh tiên đế Thuận Trị, cùng 18 người bị kết tội chết, đấy được gọi là vụ Khốc Miếu Án. Ngày mùng 8 tháng 7, khi lâm hình, nhìn thấy người nhà, Kim Thánh Thán nói “Liên tử tâm trung khổ, Lê nhi phúc nội toan蓮子心中苦梨兒腹內酸”.

21 nhận xét:

  1. Đệ tứ thập tam tượng:
    Tam Thập niên trung tử tôn kết
    Có lẽ là: 30 năm sau hết kế thừa, 1997 + 30 = 2027   

    Trả lờiXóa
  2. Chào anh Viên Thông,
    Anh có biết ai đã viết phần Tụng hay không? Và Tiểu Cầm là nhân vật nào?

    Thành thật cảm ơn

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Xin trình bày với anh một chút hiểu biết của chúng tôi về việc anh hỏi.
      Tương truyền, Viên Thiên Cương và Lý Thuần Phong đều là các đạo sỹ đắc đạo. Viên Thiên Cương sở trường về xem tướng người (tướng Nhân), xem số người, có làm ra cái gọi là “Xứng cốt ca”, tức là cách tính phân lạng theo năm, tháng, ngày, giờ, để xem lành dữ … và một số trước tác trong kinh sách Đạo Giáo. Lý Thuần Phong sở trường về xem Thiên Văn (tướng Thiên), xem Địa Lý Phong Thủy (tướng Địa), họ Lý có sách về hai môn này. Trong sách Vạn Pháp Quy Tông thấy có sách truyền của hai vị này. Họ Viên có khả năng vẽ vời, nên vẽ hình, còn họ Lý thì làm Sấm và Tụng.
      Tiếu Cầm肖琴, họ Chu朱, tên là Bỉnh Quân 秉鈞 , lúc nhỏ gọi là Ngọ Thọ 午壽 , sinh năm Quang Tự thứ 18 (1892), tại thành Hải Ninh 海寧, châu Hải Ninh, nay là thành phố Hải Ninh, phía Bắc tỉnh Chiết Giang. Cha là Lục Cầm绿琴, nhà ở ao Song Ngư phía Bắc thành Hải Ninh, có thư viện, dạy học vỡ lòng cho trẻ con trong họ. Chu Tiếu Cầm là hậu duệ của Chu Hy朱熹, một nhà Lý Học của Tống Nho, người viết Chu Dịch Bản Nghĩa. Chu Tiếu Cầm 12 tuổi vào học ở Hải Ninh Đạt Tài Cao Đẳng Tiểu Học Đường, học sinh trường này có nhiều người là nhân sỹ trong xã hội. Sau tiếp tục học ở Thượng Hải Thực Học Thông Nghệ Quán. Học xong đi làm trên tàu chở hàng dọc sông Trường Giang. Do bạn bè giúp đỡ, chuyển sang làm nhân viên kinh doanh của Mỹ Thương Lợi Đạt Dương Hàng. Năm 1922, mở cửa hàng Đại Đồng Ấn Loát Tài Liệu, tại đường Giao Thông khu phố Kỳ Bàn, Thượng Hải, nay là đường Chiêu Thông, chủ yếu là mua bán giấy và in thạch bản. Về sau phát triển thành doanh nghiệp ngành giấy và in hàng đầu Thượng Hải. Chu Tiếu Cầm với bản thân thì cần kiệm, giúp đỡ người khác thì rộng rãi, hiểu sâu biết rộng, được bạn học đánh giá là “nhân sỹ núp bóng nhà buôn”. Năm 1936, thấy tình hình chiến tranh sắp sửa nổ ra, Chu Tiếu Cầm ngừng việc kinh doanh, ẩn cư nơi thành thị. Qua đời ngày 16-11-1964 tại Thượng Hải, thọ 73 tuổi.
      Vợ cả Dư Tú Hồng 余秀鴻 sinh năm 1896, đến những năm 80 tuổi sang Mỹ sống, năm 95 tuổi về ở nhà con gái Chu Gia Thúy, ở Thượng Hải, và qua đời ở đó.
      Con cái có 13 người trai gái, chết yểu 2 trai 2 gái. Trong đó 9 con đầu là của vợ cả Dư Tú Hồng sinh. Con trai trưởng Chu Gia Lân朱家麟, năm 1932, 16 tuổi, đột nhiên mất tích ở Hải Ninh. Con gái Chu Gia Ngọc朱家玉, năm 1958, khi đang làm giảng viên Trung văn, ở đại học Bắc Kinh, kiêm bí thư chi bộ, đã bị mất tích trên biển không rõ nguyên nhân.
      Con gái trưởng Chu Gia Trân朱家珍, tốt nghiệp đại học Hộ Giang năm 1947, sau đó sang Mỹ học chuyên sâu về hóa học, nhập quốc tịch Mỹ, là giám đốc công ty Mỹ Khang 美康, tại Princeton, New Jersey. Năm 1990, nhân việc tang của mẹ, Chu Gia Trân đã trở về Thượng Hải lo việc. Sau đó đã thành lập Quỹ học bổng Chu Tiếu Cầm, theo di nguyện của cha và ông.

      Xóa
  3. Xem ra Chu Tiếu Cầm là phú ông, lại am hiểu nhiều, nhưng bất hạnh về đường con cái.

    Trả lờiXóa
  4. Đệ tứ thập tượng Quý Mão Tốn hạ Cấn thượng Cổ

    Sấm viết

    Nhất Nhị Tam Tứ
    vô thổ hữu chủ
    tiểu tiểu Thiên Cương
    thùy củng nhi trị

    Tụng viết

    nhất khẩu Đông Lai khí thái kiêu
    Cước Hạ Vô Lý thủ vô Mao
    nhược phùng Mộc Tử băng sương hoán
    sinh ngã giả Hầu tử ngã Điêu

    Thánh Thán viết thử tượng hữu nhất Lý tính năng phục Đông Di, nhi bắt năng đồ trường trị cửu an chi sách, tốt chí toàn trị toàn loạn, hữu thú hoạt cầm tử chi ý dã.
    Lý Hồng Chí cùng đám PLC tự nhận ứng với câu này!!! Không còn gì để nói.

    Trả lờiXóa
  5. Chào anh Viên Thông,

    Có một số bài sấm cho là của Lưu Bá Ôn (xuất hiện trên trang chanhkien.com). Nếu có thể, xin anh để vào đây luôn.

    Cảm ơn nhiều

    Sơn Nguyễn

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Có điều kiện chúng tôi sẽ đăng lên, vì việc biên dịch và chú giải gặp nhiều khó khăn, nhiều chỗ nghĩ không thông, lại ít nguồn tham khảo.

      Xóa
  6. Có nhiều phần sai lắm. Ví dụ Tượng 20 và 48 đều là quẻ Đồng Nhân, tượng 37 Chấn hạ vạch hào in sai, tượng 39 quẻ và vạch hào cũng in sai...

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Việc các quẻ lặp lại là chuyện thường, Mã Tiền Khóa có 14 khóa còn lặp lại. Còn việc sai sót trong chế bản, in ấn là không tránh khỏi. Tứ Khố Toàn Thư-Ngự Lãm cũng sai sót đầy dẫy, chẳng thấy đính chính gì. Khang Hy Tự Điiển sai làm đến hơn 2000 mục. Dùng người không biết chữ làm thợ khắc ván in. Vả lại mấy cái quẻ này chẳng thấy ai bàn về ý nghĩa cả, không hiểu có tác dụng gì.

      Xóa
  7. Tôi có kiến giải tượng 44 như sau:
    Câu "Song vũ tứ túc", theo link sau đây để chỉ sự kiện chủ tịch Tập Cận Bình của TQ gặp tổng thống Mã Anh Cửu của Đài Loan vào ngày 7/11/2015 (xem https://chanhkien.org/2016/08/nam-2016-2017-trong-thoi-boi-do-1-gioi-thieu.html). Từ đó, có thể hiểu "Nhật nguyệt lệ thiên" để chỉ nhật (TQ), nguyệt (Đài Loan), một vệ tinh, lệ thiên: hai bên không có căng thẳng. Nguyệt là trăng ban đêm, chỉ âm. Như vậy, quần âm có thể để chỉ các vệ tinh xay quanh TQ nói tiếng TQ, hay xa hơn là các nước ASEAN. Cửu quốc: 9 nước để chỉ khối ASEAN (10 nước Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thailand, Brunei, Laos, Myanmar, Cambodia và Vietnam). 10 nước tại sao nói 9, vì Singapore nói tiếng TQ, là người TQ, tức không phải trùng dịch. "Trung quốc nhi kim hữu thánh nhân" có thể hàm nghĩa giai đoạn này TQ có danh tự 'thánh nhân' xuất hiện (mà Pháp Luân Công cho là Lý Hồng Chí). Hoặc để chỉ Tập Cận Bình (thánh nhân theo từ điển Nguyễn Quốc Hùng là người tài giỏi, đức độ) vì đã làm TQ giàu mạnh. Trong hình vẽ, người ngồi quay mặt về hướng nam có thể là vua (chủ tịch) Tập, tuy nhiên người đứng mang cung hàm ý lãnh đạo các nước nhỏ hơn, dù phục tùng nhưng không quỳ tức không kính trọng, và mang cung hàm ý đã chuẩn bị sẵn sàng nếu có chiến tranh.

    Từ tượng 45 trở về sau là chuyện tương lai, để chỉ các sự kiện ở TQ, và thế giới (vì tính globalization: hội nhập toàn cầu), có thể xảy ra dồn dập. Từ từ sẽ chiêm nghiệm vậy.

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Tập Cận Bình là Thánh Nhân, thế thì phải đúc tượng, lập đền thờ sống như Ngụy Trung Hiền mới xứng. Nếu không, Đức Lớn của Trời Đất lại không được sáng tỏ ư!

      Xóa
    2. Vị thánh nhân thật sự chưa xuất hiện cho tới hết bản sấm. Ở đây tôi chỉ muốn nói có thể theo quan điểm người tàu hay Lý Thuần Phong, để chỉ một người tài giỏi làm cho nước TQ giàu mạnh dù với thủ đoạn, hoặc là ngày nay tự nhiên danh từ 'thánh nhân' được nghe nói đến rất nhiều (để tuyên truyền, xưng tụng một nhân vật nào đó dù chẳng có đạo đức gì)

      Xóa
    3. Giống như ngày nay chữ 'thánh' bị lạm dụng rất nhiều để chỉ một nhân vật kiệt xuất về một phương diện nào đó (như thánh mì gõ, thánh dame, thánh hát ...)

      Xóa
    4. tôi cũng có cùng ý nghĩ như bạn snn, Sấm 44 ám chỉ thánh nhân Tập, được coi trong bởi các nước trong Con ĐƯờng Tơ Lụa, Tôi đoán Sấm 45 nói TQ và Đài loan đoàn tụ trong hòa bình, 2 nước cùng nhau xử lý Nhật ( gây chiến bởi Mỹ)..nhưng ko lâu sau.. Sấm 46 nói Tập bị ám sát..và đây là lý do cũng dẫn tới chiến trang thế giới thứ 3 ở Sấm 55

      Xóa
    5. Có thông tin cho biết thứ tự các tượng bản Thôi Bối Đồ đã bị xáo trộn thời Tống, tuy nhiên bản này các diễn biến lịch sử TQ đã xảy ra theo trình tự thời gian cho đến tượng 44. Hy vọng những tượng sau là chuyện của tương lai.

      Xóa
  8. tôi cũng có cùng ý nghĩ như bạn snn, Sấm 44 ám chỉ thánh nhân Tập, được coi trong bởi các nước trong Con ĐƯờng Tơ Lụa, Tôi đoán Sấm 45 nói TQ và Đài loan đoàn tụ trong hòa bình, 2 nước cùng nhau xử lý Nhật ( gây chiến bởi Mỹ)..nhưng ko lâu sau.. Sấm 46 nói Tập bị ám sát..và đây là lý do cũng dẫn tới chiến trang thế giới thứ 3 ở Sấm 55

    Trả lờiXóa
  9. Tôi vẫn nghĩ tượng 45 đã xảy ra, nhưng lại thắc mắc vì thứ tự các tượng theo trình tự thời gian. Tượng 45 có thể giải thích như sau:
    - Hữu khách Tây lai, chí Đông nhi chỉ: cực Đông là nước Nhật, khách là Mỹ
    - Mộc Hoả Kim Thuỷ: có 2 ý: 1) chỉ quốc gia mà 3 mặt Đông Nam Tây giáp nước, tức là Mỹ, hay là 2) Nhật (hành Mộc phương Đông) gây chiến tranh (Hoả), Mỹ (hành Kim phương Tây) dứt chiến tranh (dùng Thuỷ khắc Hoả)
    - Tẩy thử đại sỉ: cả TQ và Mỹ đều có mối nhục với Nhật (chiếm TQ và tấn công Trân Châu Cảng)
    - Viêm vận hoành khai thế giới đồng: Chiến tranh thế giới thứ 2 xảy ra khắp nơi (1939-1945)
    - Kim ô ẩn nặc bạch dương trung: Kim ô tức quạ vàng để chỉ mặt trời, tức Nhật, ẩn xuống nước biển: tức thua trận, màu trắng: đầu hàng
    - Tòng thử bất cảm xưng hùng trưởng: Từ đây không còn dương oai diệu võ nữa
    - Binh khí tàn tiêu vận dĩ chung: Bị giải giới hoàn toàn sau khi đầu hàng vô điều kiện.

    Trả lờiXóa
  10. Và tượng 46: Vụ ám sát Hitler ngày 20/7/1944
    - Ảm ảm âm mai: âm mưu ám sát
    - Sát bất dụng đao: dùng bom
    - Vạn nhân bất tử: chữ vạn 萬 trùng âm với 卐 dấu hiệu của Đức Quốc Xã (hơi nghiêng về phải 45 độ). Vạn nhân: người chữ vạn, tức Hitler. Ông bị ám sát bởi tướng Stauffenberg nhưng không chết (bất tử)
    - Nhất nhân nan đào: Tướng Stauffenberg khó trốn, bị bắt và xử tử.
    - Hữu nhất quân nhân thân đới cung: Tướng Stauffenberg mang một va li nhỏ chứa 2 trái bom
    - Chỉ ngôn ngã thị bạch đầu ông. Tướng Stauffenberg có gốc là Graf, tương đương với bá tước 伯爵. Tước: là một chức vị, cũng là chim sẽ. Bá: chiết tự có chữ bạch, hàm nghĩa lãnh tụ của nhóm muốn ám sát Hitler (German Resistance)
    https://en.wikipedia.org/wiki/Graf
    một chức như bá tước, với chiếc vương miện trông như mào con chim, có màu trắng trên đỉnh
    - Đông biên môn lý phục kim kiếm: Tổng hành dinh của Hitler ở Mặt trận phía Đông nằm trong Balan
    - Dũng sĩ hậu môn nhập đế cung: đế cung để chỉ địa điểm Wolf’s Lair, tổng hành dinh của Hitler, nơi cuộc ám sát xảy ra.

    Trả lờiXóa
  11. Tôi đã đúc kết phần kiến giải trên, và vài tượng tiếp sau ở trang blog cá nhân, bài SẤM KÝ Trung Quốc - Thôi Bối Đồ, với link dưới đây. Mời quý vị thưởng lãm và góp ý.

    https://snn79blog.wordpress.com/2019/12/20/sam-ky-trung-quoc-thoi-boi-do/

    Trả lờiXóa
  12. tượng thứ 38 như Tiếu Cầm giải là không đúng.
    Theo cá nhân tôi thì nó nói về sự kiện cháy rừng ở Úc, đại dịch Covid-19 và thảm họa sóng thần quét bờ biển.

    Trả lờiXóa