Thứ Hai, 28 tháng 4, 2014

Một số bài thơ hán nôm của các tác giả Việt Nam


Thơ của 
Kỳ Đồng Nguyễn Văn Cẩm

Bài 1 

人 生 處 處 舉 逢 春
處 舉 逢 春 一 好 辰
春 一 好 辰 天 勝 會
辰 天 勝 會 景 隨 人



Phiên âm
Nhân sinh xứ xứ cử phùng xuân
Xứ cử phùng xuân nhất hảo thần
Xuân nhất hảo thần thiên thắng hội
Thần thiên thắng hội cảnh tùy nhân

Nhân tùy cảnh hội thắng thiên thần
Hội thắng thiên thần hảo nhất xuân
Thần hảo nhất xuân phùng cử xứ
Xuân phùng cử xứ xứ sinh nhân


Bài 2

千 里 悠 悠 一 路 
騎 驢 相 顧 没 相 隨
雖 翔 千 仞 猶  難
難 寓 孤 山 一 住 持
治 疇 願 學 伊 先 覺
揚 節 難 留 没 故 基
寄 孤 樂 我 耕 耡 下
何 事 奄 奄 浪 皺 眉


Phiên âm

Thiên lý du du nhất lộ kỳ
Kỵ lồ tương cố một tương tùy
Tuy tường thiên lý do ngu nạn
Nan ngụ cô sơn nhất trụ trì
Trị trù nguyện học y tiên giác 
Dương tiết nan lưu một cố ky
Ký cô lạc ngã canh sừ hạ
Hà sự yêm yêm lãng trứu my


- Bài thơ thứ nhất quả là tuyệt tác, xưa nay hiếm có. Dùng điệp ngữ, lấy ba chữ cuối của câu trước làm ba chữ đầu của câu sau. Đọc ngược từ chữ cuối lên được bốn câu nữa. Thế là tứ tuyệt mà thành bát cú. Với số lượng chữ là 14, gồm : nhân, sinh, xứ, cử, phùng, xuân, nhất, hảo, thần (tức là chữ thời, do húy thời Nguyễn), thiên, thắng, địa, cảnh, tùy ; đã làm thành bài thơ vừa đẹp về hình thức, vừa hay về nội dung. 


Dạ Trạch cầu mộng văn

夜澤求夢文
阮廌
恭惟
上帝生成
先王世系
儼爾高聖智之資
凛若有神明之氣
椒房翠屋自處無一點風塵
鳳輦龍車逝行遍四方城巿
幔幮曳地歷三階
鉦鼓連天驚百里
人何幸遇深知萬劫因緣
天已使然只是一團天理
黄金養拯天尊
伏笠安排諸地位
化成寶殿明珠滿諸庫深嚴
身著黃袍拱已視百官朝衛
遠近皆一國矧
中孝激大兵遠避
伸一夜風飛部落上青穹
德普九天雲襲聖賢玉陛
跡遺夜澤英靈
鎮得天南山水
感王旗感應垂龍麟降下陽壇
形玉諭丁宁脫龜爪援於越帝
威一助深劫京兵
令再伸貴為天子
信自來感自應德佑生靈
災能捍患能除功垂萬世
是以臣至敬王前
敢昭告當今時事
烏合蜂起自丙子已來
幅裂瓜分經二十四歲
運適丁胡氏起興
時厥見奸雄睥睨
臣察去就義蒙知天地常經
斷續盛衰道未識聖人統紀
群方藉藉起蛙爭
四海紛紛如鼎沸
破家閫摧檯檐縱煙紅燄挺障天
攻城邑掠民村無辜人依投落地
秦攻秦擾擾橫衡
暴易暴滔滔驕肆
黷天倫蠹天才濫天爵僭竊自如
傷人命奪人妻占人地忍殘若是
益嚴加妄剎立威
自要索煩民賦稅
男女老少頻征役萬方其將疇依
士農工商俱失时四民何曾仗倚
人愁苦豈擔肌膚
民嗟嘆痛入骨髓
臺中城巿生荊棘處處散失
野外田園盡荒蕪人人去避
決東海之水不足濯污
罄南山之竹難勝書弊
加如時水旱民饑渴難就耕耘
屢見歲凶荒民彫殘難憑住趾
望天直扶真主為天下除殘
願天早生聖人代天工出治
臣見斯民
時常加志
義常敦擇主當二十年餘
時未遇真人做工夫勞費
無門可以禱求
仰王自來頓跪
望王騰空降下表章感化妙玄
願王報應分明決斷狐疑猶豫
使臣知天命興廢之由
使臣識身達事功之際
雖然
陰極則陽生
亂極則治致
治亂皆由天數豈敢自求
扶持實賴神明以為所恃
盛矣乎有感皆通
自然見所求如意
願得天台仙藥自養長生
幸憑神力威靈降其福祉
憫蒼生乆羅塗炭置以春臺
推赤子安慰邇遐副其顒徯
願此望求
謂何指示
香憑一篆仰天地神衹造化之功
筆止一辭表歲月謹恭敬誠之志
謹告

Phiên âm

Dạ Trạch cầu mộng văn
Nguyễn Trãi

Cung duy!
Thượng Đế sinh thành,
Tiên Vương thế hệ.
Nghiễm nhĩ cao Thánh trí chi tư,
Lẫm nhược hữu Thần minh chi khí.
Tiêu phòng thúy ốc, tự xử vô nhất điểm phong trần,
Phượng liễn long xa, thệ hành biến tứ phương thành thị.
Mạn trù duệ địa lịch tam giai,
Chinh cổ liên thiên kinh bách lý.
Nhân hà hạnh ngộ, thâm tri vạn kiếp nhân duyên,
Thiên dĩ sử nhiên, chỉ thị nhất đoàn Thiên lý.
Hoàng kim cung dưỡng chửng Thiên Tôn,
Phục lạp an bài chư địa vị.
Hóa thành ngọc điện, minh châu mãn chư khố thâm nghiêm.
Thân trước hoàng bào, củng dĩ thị bách quan triều vệ.
Viễn cận giai nhất quốc thẩn hàm,
Trung hiếu khích đại binh viễn tỵ.
Lệnh thân nhất dạ, phong phi bộ lạc thượng thanh khung,
Đức phổ Cửu Thiên, vân tập Thánh Hiền đăng ngọc bệ.
Tích di Dạ Trạch anh linh,
Trấn đắc Thiên Nam sơn thủy.
Cảm Vương kỳ cảm ứng, thùy long lân giáng hạ dương đàn,
Hình ngọc dụ đinh ninh, thoát quy trảo thụ ư Việt đế.
Uy nhất trợ thâm kiếp kinh binh,
Lệnh tái thân quý vi Thiên tử.
Tín tự lai, cảm tự ứng, đức hựu sinh linh,
Tai năng hãn, hoạn năng trừ, công thùy vạn thế.
Thị dĩ thần chí kính Vương tiền,
Cảm chiêu cáo đương kim thời sự.
Ô hợp phong khởi, tự Bính Tý dĩ lai,
Bức liệt qua phân, kinh nhị thập tứ tuế.
Vận đích đinh, Hồ thị khởi hung,
Thời quyết kiến, gian hùng bễ nghễ.
Thần sát khứ tựu, nghĩa mông tri Thiên Địa thường kinh,
Đoạn tục thịnh suy, đạo vị thức Đế Vương thống kỷ.
Quần phương tịch tịch khởi oa tranh,
Tứ hải phân phân như đỉnh phí.
Phá gia khổn, tồi đài thiềm, túng yên hồng diệm đĩnh chướng thiên,
Công thành ấp, lược dân thôn, vô cô nhân y đầu lạc địa.
Tần công Tần nhiễu nhiễu hoành hành,
Bạo dịch bạo thao thao kiêu tứ.
Độc Thiên luân, đố thiên tài, lạm thiên tước, tiếm thiết tự như,
Thương nhân mệnh, đoạt nhân thê, chiếm nhân điền, nhẫn tàn nhược thị.
Ích nghiêm gia vọng sát lập uy,
Tự yêu sách phiền dân phú thuế.
Nam nữ lão thiếu tần chinh dịch, vạn phương kỳ tướng trù y,
Sỹ nông công thương giai thất thời, tứ dân hà tằng trượng ỷ.
Nhân sầu khổ khởi đảm cơ phu,
Dân ta thán thống nhập cốt tủy.
Đài trung thành thị sinh kinh cức, xứ xứ tán thất,
Dã ngoại điền viên tận hoang vu, nhân nhân khứ tỵ.
Quyết Đông hải chi thủy bất túc trạc ô,
Khánh Nam sơn chi trúc nan thắng thư tệ.
Gia như, thời thủy hạn, dân cơ khát, nan tựu canh vân,
Lũ kiến, tuế hung hoang, dân điêu tàn, nan bằng trụ chỉ.
Vọng Thiên trực phù chân chủ, vị thiên hạ trừ tàn,
Nguyện Thiên tảo sinh Thánh nhân, đại Thiên công xuất trị.
Thần kiến tư dân,
Thời thường gia chí.
Nghĩa thường đôn trạch chủ, đương nhị thập dư niên,
Thời vị ngộ chân nhân, tố công phu lao phí.
Vô môn khả dĩ đảo cầu,
Ngưỡng Vương tự lai đốn quỵ.
Vọng Vương đằng không giáng hạ, biểu chương cảm hóa diệu huyền,
Nguyện Vương báo ứng phân minh, quyết đoán hồ nghi do dự.
Sử thần tri Thiên mệnh hưng phế chi do,
Sử thần thức thân đạt sự công chi tế.
Tuy nhiên!
Âm cực tắc dương sinh,
Loạn cực tắc trị chí.
Trị loạn giai do Thiên số, khởi cảm tự cầu,
Phù trì thực lại Thần minh, dĩ vi sở thị.
Thịnh hỹ hồ, hữu cảm giai thông,
Tự nhiên kiến, sở cầu như ý.
Nguyện đắc Thiên Thai tiên dược, tự dưỡng trường sinh,
Hạnh bằng Thần lực uy linh, giáng kỳ phúc chỉ.
Mẫn thương sinh cửu la đồ thán, trí dĩ xuân đài,
Thôi xích tử an úy nhĩ hà, phó kỳ ngẫu hễ.
Nguyện thử vọng cầu,
Vị hà chỉ thị.
Hương bằng nhất triện, ngưỡng Thiên Địa Thần Kỳ tạo hóa chi công,
Bút chỉ nhất từ, biểu tuế nguyệt cẩn cung kính thành chi chí.
Cẩn cốc!


Tạm dịch
Bài văn cầu mộng ở Dạ Trạch
Nguyễn Trãi

Thượng Đế sinh thành,
Tiên Vương dòng dõi.
Trang nghiêm tư chất của bậc Thánh trí,
Lẫm liệt khí độ của bậc Thần minh.
Buồng tiêu, nhà thúy, tự giữ không chút bụi bặm,
Liễn phượng, xe rồng, rong ruổi khắp nơi thành thị.
Màn trò giăng vòng quanh ba lớp,
Trống chiêng liên tục kinh động trăm dặm.
Người sao may gặp, biết rằng nhân duyên vạn kiếp,
Trời làm ra vậy, chỉ là lẽ Trời cả thôi.
Hoàng kim dâng cúng Thiên tôn,
Nón úp bày ra khắp chốn.
Hóa thành bảo điện, ngọc sáng đầy các kho chắc chắn,
Thân khoác hoàng bào, coi giữ có trăm quan chầu lại.
Xa gần trong một nước đều hay,
Trung hiếu khiến đại binh xa tránh.
Lệnh trong một đêm, gió đưa bộ lạc lên trời xanh,
Đức khắp chín tầng trời, mây đến Thánh hiền lên bệ ngọc.
Dấu vết còn ở Dạ Trạch thiêng liêng,
Trấn giữ được ở trời nam non nước.
Cảm thấy sự cảm ứng của lá cờ của vua, rủ vảy rồng xuống dưới đàn cúng dương gian.
Hình dung được rõ ràng lời dạy dỗ của bề trên, tháo móng rùa trao cho Việt đế.
Oai giúp sức, đánh bạt lính kinh thành,
Ra lệnh tiếp, quý làm vua chúa.
Tin tự đến, cảm tự ứng, đức giúp muôn loài,
Ngăn tai nạn, trừ hoạn họa, công tới muôn đời.
Vì vậy bề tôi rất cung kính trước mặt vua,
Liều tâu lên chuyện của đời nay.
Quạ họp, ong dấy, từ năm Bính Tý đến nay,
Màn rách, dưa vỡ, trải 24 năm.
Vận đúng lúc họ Hồ dấy lên,
Lúc bấy giờ gian hùng nhòm ngó.
Bề tôi xem xét kỹ càng, mong biết nghĩa kinh điển của Trời Đất,
Đứt nối thịnh suy, chưa biết đạo thống kỷ của Thánh nhân.
Khắp nơi ồm ộp ếch tranh kêu,
Bốn bể sùng sục vạc nước sôi.
Phá cửa, đốt nhà, khói lửa rực bốc rợp trời,
Đánh thành, cướp dân, kẻ vô tội dập vùi dưới đất.
Tần đánh Tần rối rít ngang ngược,
Dữ thay dữ cuồn cuộn bừa bãi.
Loạn đạo Trời, mòn tài Trời, lạm tước Trời, trộm ngôi trên tự nhiên.
Hại mạng người, cướp vợ người, chiếm ruộng người, tàn nhẫn như thế.
Thêm khắt khe, giết chóc bừa bãi để ra oai,
Tự đòi hỏi, gây rắc rối cho dân về thuế má.
Trai, gái, già, trẻ luôn có việc, muôn nơi biết sống vào đâu,
Sĩ, nông, công, thương đều lỡ thời, bốn dân nương tựa chỗ nào.
Người buồn khó, chẳng chỉ thịt da,
Dân rên xiết, đau tới xương tủy.
Trong thành phố phường đầy gai góc, chốn chốn tan hoang,
Ngoài nội ruộng vườn thật xác xơ, người người đi lánh.
Tháo cả nước bể đông, chẳng đủ rửa vết nhơ,
Chặt sạch trúc núi nam, khó mà ghi hết tệ.
Thêm như khi hạn lụt, dân đói khát khó thể cày bừa,
Nhiều lần thấy mất mùa, dân xơ xác khó chỗ ăn ở.
Trông Trời giúp cho chân chúa, vì thiên hạ dẹp kẻ bạo tàn,
Mong Trời sớm sinh Thánh nhân, thay mệnh Trời ra tay cứu thế.
Bề tôi thấy cảnh của dân,
Hằng ngày vẫn lập chí.
Nghĩa thường dốc lòng chọn chúa, đã ngoài hai mươi năm,
Thời chưa gặp được chân nhân, kể xiết công phu hao phí.
Không có cửa nào có thể cầu đảo,
Ngửa trông Vương đến đây quỳ lạy.
Trông Vương từ trên không đáp xuống, biểu chương cảm hóa nhiệm mầu,
Mong báo ứng thật rõ ràng, quyết đoán hồ nghi do dự.
Làm cho bề tôi biết mệnh Trời hưng phế vì sao,
Làm cho bề tôi biết bản thân công nghiệp thứ bậc.
Nhưng mà:
Âm cực ắt dương sinh,
Loạn tột ắt trị tới.
Trị loạn đều do số Trời, há dám cầu mong,
Giúp đỡ nhờ ơn sức Thần, lấy đấy chỗ dựa.
Lớn lao thay, có cảm ứng đều sẽ được thông,
Hẳn là thấy, việc cầu xin gặp điều như ý.
Mong được Thiên Thai tiên dược, giúp việc sống lâu,
May bằng Thánh lực uy linh, ban cho phúc chỉ.
Thương dân đen khó nhọc bấy lâu, dựng chốn Xuân đài,
Vì con đỏ xa gần an ủi, đáp theo sự thể.
Lòng muốn cầu xin như thế,
Mong xem dạy bảo thế nào.
Hương bằng một nén, ngửa trông công đức của Trời, Đất, Thần, Kỳ tạo hóa,
Bút dừng vài dòng, tỏ rõ chí hướng cùng năm tháng cẩn cung thành kính.

Xin kính trình!











2 nhận xét:

  1. Ông này đầu tiên cũng nghĩ mình sinh ra ứng với điềm sinh Thánh đây. Bài thơ thứ hai là nói về việc làm nông trại ở Yên Thế, phảng phất ý tứ chữ "phá điền" trong Sấm Trạng. Kỳ Đồng cho rằng, "phá điền"=chữ Thân , tức là ứng với năm Thân.

    Trả lờiXóa
  2. "Sỹ, nông, công, thương giai thất thời", người có học, người làm ruộng, người sản xuất hàng hóa máy móc, người buôn bán, đêu không gặp thời; chỉ có vua, quan, binh lính là đắc thế. Quả nhiên, đã là đạo lý, thời nào cũng đúng.

    Trả lờiXóa