Thứ Bảy, 1 tháng 9, 2018

Thiêu Bính Ca

             劉伯溫燒餅歌
明護國軍師劉基撰
Lưu Bá Ôn-Thiêu Bính Ca
Minh, Hộ quốc quân sư, Lưu Cơ soạn

  明太祖一日身居內殿食燒餅方咬一口內監忽報國師劉基進見太祖以碗覆之始召基入禮畢帝問曰先生深明數理可知碗中是何物件
  基乃揑指輪算對曰半似日兮半似月曾被金龍咬一缺此食物也開視果然

Phiên âm

Minh Thái Tổ nhất nhật thân cư nội điện, thực thiêu bính, phương giảo nhất khẩu, nội giám hốt báo Quốc sư Lưu Cơ tiến kiến, Thái Tổ dĩ uyển phúc chi, thủy triệu Cơ, nhập lễ tất, đế vấn viết: Tiên sinh thâm minh số lý, khả tri uyển trung thị hà vật kiện?
Cơ nãi niết chỉ luân toán, đối viết: Bán tự nhật hề bán tự nguyệt, tằng bị Kim Long giảo nhất khuyết, thử thực vật dã! Khai thị, quả nhiên.

Tạm dịch

Một ngày, Minh Thái Tổ ở trong cung cấm, ăn bánh nướng, vừa cắn một miếng, chợt người hầu báo có Quốc sư Lưu Cơ xin gặp. Thái Tổ lấy bát úp lên chiếc bánh, rồi cho gọi Cơ vào, hành lễ xong, vua hỏi rằng: Tiên sinh là người biết rõ và sâu về lý số, có thể biết trong bát là cái gì không?
Cơ bấm tay tính toán, rồi đáp rằng: Nửa giống mặt trởi nửa giống mặt trăng, từng bị con Rồng Vàng cắn mất một góc, đấy là món ăn vậy! Mở ra, quả đúng như thế.

  帝即問以天下後世之事若何
  基曰茫茫天數我主萬子萬孫何必問哉

Phiên âm

Đế tức vấn dĩ thiên hạ hậu thế chi sự nhược hà?
Cơ viết: Mang mang Thiên số, ngã chủ Vạn tử Vạn tôn, hà tất vấn tai!

Tạm dịch

Vua bèn hỏi việc thiên hạ về sau ra sao?  
Cơ đáp: Số trời mênh mang, vua ta Muôn con Muôn cháu, cần gì phải hỏi! 
(ám chỉ nhà Minh có vua Vạn Lịch, đến cháu của Vạn Lịch là Sùng Trinh thì nhà Minh sụp đổ)

  帝曰雖然自古興亡原有一定況天下非一人之天下惟有德者能享之言之何妨試略言之
  基曰洩漏天機臣罪非輕陛下恕臣萬死方敢冒奏

Phiên âm

Đế viết: Tuy nhiên, tự cổ hưng vong nguyên hữu nhất định. Huống thiên hạ phi nhất nhân chi thiên hạ, duy hữu đức giả năng hưởng chi, ngôn chi hà phương? Thí lược ngôn chi!
Cơ viết: Tiết lậu Thiên Cơ, thần tội phi khinh. Bệ hạ thứ thần vạn tử, thần cảm mạo tấu.

Tạm dịch

Vua nói: Tuy rằng, từ xưa dấy lên mất đi đều đã định trước không thay đổi. Vả lại thiên hạ không phải là thiên hạ của một người, chỉ người có đức mới có thể được hưởng vậy, cứ nói ra ngại gì? Thử nói qua xem sao!  
Cơ đáp: Rò rỉ Thiên Cơ, tội của thần không nhẹ. Đức vua tha cho bề tôi tội muôn chết, bề tôi mới dám liều tâu!

  帝即賜以免死金牌基謝恩畢奏曰:我朝大明一統世界南方終滅北方興雖然太子是嫡裔文星高拱日防西

Phiên âm

Đế tức tứ dĩ miễn tử kim bài, Cơ tạ ân tất, tấu viết: Ngã triều Đại Minh nhất thống thế giới, Nam phương chung diệt Bắc phương hưng, tuy nhiên thái tử thị đích duệ, Văn tinh cao củng nhật phòng tây.

Tạm dịch

Vua bèn ban cho thẻ tha tội chết bằng vàng, Cơ tạ ơn xong, tâu rằng: Triều đại Đại Minh ta thống lĩnh thế giới, phương Nam cuối cùng bị mất  phương Bắc dấy lên, tuy thái tử là con nối dõi, Văn tinh trên cao chầu về, mặt trời đề phòng hướng tây.
(ý chỉ Chu Doãn Văn-Kiến Văn ở Nam Kinh bị tiêu diệt)

  帝曰朕今都城築堅守密何防之有
  基曰臣見都城雖屬鞏固防守嚴密似覺無虞只恐燕子飛來(指太祖第四子燕王簒奪)
隨作歌三首曰此城御駕盡親征一院山河永樂平(燕王後號永樂)禿頂人來文墨苑(指姚廣孝)英雄一半盡還鄉(千忠會)
北方胡虜殘生命御駕親征得太平失算功臣不敢諫舊靈遮掩主驚魂
國壓瑞雲七載長胡人不敢害賢良相送金龍復故舊(英宗北狩得還)靈明日月振邊疆

Phiên âm

Đế viết: Trẫm kim đô thành trúc kiên thủ mật, hà phòng chi hữu?
Cơ viết: Thần kiến đô thành tuy thuộc trúc cố, phòng thủ nghiêm mật, tự giác vô ngu, chỉ khủng Yến tử phi lai (chỉ Thái Tổ đệ tứ tử Yên vương soán đoạt).
Tùy tác ca tam thủ, viết: Thử thành ngự giá tận thân chinh, nhất viện sơn hà Vĩnh Lạc bình (Yên vương hậu hiệu Vĩnh Lạc), Đóa Đỉnh nhân lai văn mặc uyển (chỉ Diêu Quảng Hiếu), anh hùng nhất bán tận hoàn hương (Thiên Trung Hội).
Bắc phương Hồ lỗ tàn sinh mệnh, ngự giá thân chinh đắc thái bình, thất toán công thần bất cảm gián, cựu linh già yểm chủ kinh hồn.
Quốc áp Thụy Vân thất tải trường, Hồ nhân bất cảm hại hiền lương, tương tống Kim Long phục cố cựu (Anh Tông bắc thú đắc hoàn), linh minh nhật nguyệt chấn biên cương.

Tạm dịch

Vua nói: Đô thành của trẫm ngày nay xây dựng chắc chắn, trông coi kín kẽ, có gì phải đề phòng?  
Cơ đáp: Bề tôi thấy đô thành tuy rằng xây dựng vững chắc, trông coi kín kẽ, có vẻ như không có gì đáng lo, chỉ sợ chim Én bay tới (nói về con trai thứ tư của Thái Tổ là Yên vương cướp ngôi).
Theo đó làm ba bài ca, ca rằng: Thành ấy vua cầm quân tiến đánh, một dải non sông Mãi Vui yên ổn (Yên vương về sau lấy hiệu là Vĩnh Lạc), người Trọc Đầu đến vườn văn sách (chỉ Diêu Quảng Hiếu), anh hùng một nửa trở về quê (Thiên Trung Hội).
Phía bắc giặc Hồ làm hại dân lành, nhà vua dẫn quân dẹp yên, tính nhầm mà các công thần chẳng dám can ngăn, hồn ma cũ ngăn bắt làm vua sợ hãi.
(đây là nói về việc ở Thổ Mộc Bảo)
Đất nước Mây Lành bị đè nén suốt bảy năm, người Hồ chẳng dám hại hiền lương, sẽ đưa Rồng Vàng về quê cũ (Anh Tông bị bắt về phương bắc được thả về), mặt trăng mặt trời rạng rỡ giữ biên cương.

  帝曰此時天下若何
  基曰天下大亂矣

Phiên âm

Đế viết: Thử thời thiên hạ nhược hà?
Cơ viết: Thiên hạ đại loạn hỹ!

Tạm dịch

Vua hỏi: Lúc bấy giờ thiên hạ ra sao?  
Cơ đáp: Thiên hạ đại loạn vậy! 

  帝曰朕之天下有誰亂者
  基曰天下飢寒有怪異棟樑龍德乘嬰兒禁宮闊大任橫走長大金龍太平時老揀金精尤壯旺相傳昆玉繼龍堂(英宗復辟)閹人任用保社稷八千女鬼亂朝綱(指魏忠賢)

Phiên âm

Đế viết: Trẫm chi thiên hạ hữu thùy loạn giả?
Cơ viết: Thiên hạ cơ hàn hữu quái dị, đống lương long đức thừa anh nhi, cấm cung khoát đại nhiệm hoành tẩu, trường đại kim long thái bình thì. Lão luyện kim tinh vưu tráng vượng, tương truyền Côn ngọc kế long đường (Anh Tông phục tịch), Yêm nhân nhiệm dụng bảo xã tắc, Bát Thiên Nữ Quỷ loạn triều cương (chỉ Ngụy Trung Hiền).

Tạm dịch

Vua hỏi: Ai là người làm loạn thiên hạ của trẫm?  
Cơ đáp: Thiên hạ đói rét có việc lạ lùng, rường cột nhà vua lại dựa vào đứa trẻ con, cung cấm rộng rãi dùng chạy theo chiều ngang được, Rồng Vàng to dài thuở thái bình. Tinh túy của vàng được trui rèn trở nên mạnh mẽ, nghe nói ngọc Côn sẽ nối ngôi vua (Anh Tông trở lại làm vua), tin dùng bọn Thái Giám để giữ đất nước, Tám Nghìn Quỷ Cái làm loạn phép nước (nói về Ngụy Trung Hiền).

  帝曰八千女鬼亂朕天下若何
  基曰忠良殺害崩如山無事水邊成異潭救得蛟龍真骨肉可憐父子順難當

Phiên âm

Đế viết: Bát thiên nữ quỷ loạn trẫm thiên hạ như hà?
Cơ viết: Trung lương sát hại băng như sơn, vô sự thủy biên thành dị đàm, cứu đắc giao long chân cốt nhục, khả lân phụ tử thuận nan đương.

Tạm dịch

Vua hỏi: Tám nghìn con quỷ cái làm loạn thiên hạ của trẫm ra sao?  
Cơ đáp: Giết hại kẻ trung lương xác chất thành núi, chẳng có việc gì mà ven nước lại thành đầm lạ, cứu được con cái của giao long, khá thương cha con đồng lòng khó chống lại. 

  帝曰莫非父子互爭國乎
  基曰非也樹上挂曲尺(指明朝朱姓)遇順則正至此天下未己

Phiên âm

Đế viết: Mạc phi phụ tử hỗ tranh quốc hồ?
Cơ viết: Phi dã! Thụ thượng quải Khúc Xích (chỉ Minh triều Chu tính), ngộ Thuận tắc chính, chí thử thiên hạ vị kỷ.

Tạm dịch

Vua hỏi: Chẳng phải là cha con tranh nhau làm vua chăng?  
Cơ đáp: Không phải! Trên cây treo cái Thước Vuông (nói về nhà Minh là họ Chu), gặp Thuận ắt là đúng, đến đấy thiên hạ chẳng phải của mình. 

  帝曰何為未己
  基曰萬子萬孫層疊層(萬歷子孫)祖宗山上貝衣行(崇禎)公侯不復朝金闕十八孩兒難上難
卦曰木下一了頭目上一刀一戊丁(李自成亂)天下重文不重武英雄豪傑總無成戊子己丑亂如麻到處人民不在家偶遇飢荒草寇發平安鎮守好桂花(吳三桂)

Phiên âm

Đế viết: Hà vi vị kỷ?
Cơ viết: Vạn tử Vạn tôn tằng điệp tằng (Vạn Lịch tử tôn), tổ Tông Sơn thượng Bối Y hành (Sùng Trinh), công hầu bất phục triều cung khuyết, Thập Bát Hài Nhi nan thượng nan.
Quái viết Mộc hạ Nhất Liễu đầu, Mục thượng nhất đao nhất Mậu Đinh (Lý Tự Thành loạn), thiên hạ trọng văn bất trọng vũ, anh hùng hào kiệt tổng vô thành. Mậu Tý Kỷ Sửu loạn như ma, đáo xứ nhân gian bất tại gia, ngẫu ngộ cơ hoang thảo khấu phát, bình an trấn thủ hảo Quế hoa (Ngô Tam Quế).

Tạm dịch

Vua hỏi: Làm sao chẳng của mình nữa?  
Cơ đáp: Muôn con Muôn cháu chồng chất nhau (con cháu Vạn Lịch), tổ Tông trên Núi khoác Áo trên Lưng mà đi (Sùng Trinh), công hầu chẳng quay lại chầu về vua, Mười Tám Con Trai khó khăn chồng chất.
Bát quái nói rằng dưới Cây có một Cái đầu, trên Mắt một con Dao, một Mậu Đinh (Lý Tự Thành làm loạn), thiên hạ coi trọng văn nhân chẳng coi trọng võ sỹ, anh hùng hào kiệt chẳng làm nên trò trống gì. Mậu Tý Kỷ Sửu rối như tơ vò, chốn chốn nhân dân chẳng ở nhà, chợt gặp nạn đói giặc cỏ nổi dậy, yên bình trấn giữ hoa Quế đẹp (Ngô Tam Quế). 
(chữ Sơn trên chữ Tông là chữ Sùng , chữ Trinh có chữ Bối   chữ Thị gần giống chữ Y , “Mười Tám Con Trai” là chữ Lý , Mộc Nhất  Liễulà chữ Lý  , MụcĐao   là chữ Tự , Mậu Đinh là chữ Thành )

  帝曰偶遭飢荒平常小醜天下已乎
  基曰西方賊擁亂到前無個忠良敢諫言喜見子孫恥見日衰頹氣運早昇天月缺兩二吉在中奸人機發走西東黃河涉過鬧金闕奔走梅花上九重(崇禎崩於煤山)

Phiên âm

Đế viết: Ngẫu tao cơ hoang bình thường tiểu xú, thiên hạ dĩ hồ?
Cơ viết: Tây phương tặc ủng loạn đáo tiền, vô cá trung lương cảm gián ngôn, hỷ kiến tử tôn sỉ kiến nhật, suy đồi khí vận tảo thăng thiên. Nguyệt khuyết lưỡng Nhị Cát tại trung, gian nhân cơ phát tẩu tây đông, Hoàng Hà thiệp quá náo kim khuyết, bôn tẩu Mai hoa thượng cửu trùng (Sùng Trinh băng ư Môi sơn)

Tạm dịch

Vua hỏi: Ngẫu nhiên gặp nạn đói là chuyện xấu nhỏ bình thường, thiên hạ đến như thế chăng?  
Cơ đáp: Hướng Tây giặc nâng đỡ nhau làm loạn ở trước mắt; chẳng có kẻ trung lương nào dám nói lời can ngăn; mừng thấy con cháu, xấu hổ khi thấy mặt trời; vận khí đến lúc yếu kém, sụp đổ sớm thôi; Trăng khuyết đôi Hai, điều Lành ở trong; kẻ gian nổi dậy khắp mọi nơi; vượt qua Hoàng Hà quấy rối cung vua; chạy tới hoa Mai, lên tới chin tầng trời. (Sùng Trinh chết ở Môi Sơn)
(Lý Tự Thành ở Thiểm Tây; chữ Nguyệt bỏ chữ Nhị ở trong đi, cho chữ Cát vào là chữ Chu chỉ Ngô Tam Quế xưng là Đại Chu)

  帝曰莫非梅花山作亂乎從今命人看守何如
  基曰非也遷南遷北定太平輔佐帝主有牛星運至六百又得半夢奇有字人心驚

Phiên âm

Đế viết: Mạc phi Mai Hoa sơn tác loạn hồ? Tùng kim mệnh nhân khán thủ như hà?
Cơ viết: Phi dã! Thiên Nam thiên Bắc định thái bình, phụ tá đế chủ hữu Ngưu tinh, vận chí Lục Bách hựu đắc Bán, mộng kỳ hữu tự nhân tâm kinh.

Tạm dịch

Vua hỏi: Chẳng phải là làm loạn ở núi Mai Hoa ư? Từ nay cho người coi giữ thế nào?  
Cơ đáp: Không phải vậy! Chuyển về Nam chuyển về Bắc rồi mới thái bình; giúp đỡ nhà vua có sao Ngưu; vận đến 600 năm lại được một nửa; giấc mơ lạ có chữ, lòng người rung động
(tổng kết về nhà Minh, dựng đô hai lần ở Nam Kinh và Bắc Kinh, họ Chu có chữ Ngưu, vận khí được 300 năm) 

  帝曰有六百年之國祚朕心足矣尚望有半乎天機卿難言明何不留下錦囊一封藏在庫內世世相傳勿遺也急時有難則開視之可乎
  基曰臣亦有此意遂又歌曰九尺紅羅三尺刀勸君任意自遊遨閹人尊貴不修武惟有胡人二八秋臣封櫃內俟後開時自驗
桂花開放好英雄拆缺長城盡孝忠(吳三桂出關請兵)周家天下有重復摘盡李花枉勞功黃牛背上鴨頭綠安享國家珍與粟雲蓋中秋迷去路胡人依舊胡人毒反覆從來折桂枝(三桂歸順後復叛滅之)水浸月宮主上立(清字)禾米一木併將去二十三人八方居

Phiên âm

Đế viết: Hữu lục bách niên chi quốc tộ, trẫm tâm túc hỹ, thượng vọng hữu bán hồ. Thiên cơ khanh nan ngôn minh, hà bất lưu hạ cẩm nang nhất phong, tàng tại khố nội, thế thế tương truyền vật di dã. Cấp thời hữu nạn, tắc khai thị chi, khả hồ?
Cơ viết: Thần diệc hữu thử ý. Toại hựu ca viết: Cửu xích hồng la tam xích đao, khuyến quân nhiệm ý tự du ngao, yêm nhân tôn quý bất tu vũ, duy hữu Hồ nhân Nhị Bát thu. Thần phong quỹ nội, sỹ hậu khai thời tự nghiệm.
Quế hoa khai phóng hảo anh hùng, sách khuyết trường thành tận hiếu trung (Ngô Tam Quế xuất quan thỉnh binh), Chu gia thiên hạ hữu trùng phục, trích tận Lý hoa uổng lao công. Hoàng ngưu bối thượng Áp đầu Lục, an hưởng quốc gia trân dữ lật, vân cái trung thu mê khứ lộ, Hồ nhân y cựu Hồ nhân độc, phản phúc tùng lai chiết Quế hoa (Tam Quế quy thuận, hậu phục phản, diệt chi), Thủy tẩm Nguyệt cung Chủ thượng lập (Thanh tự), hòa Mễ nhất Mộc tính tương khứ, nhị thập tam nhân Bát phương cư.

Tạm dịch
Vua nói: Phúc nước được 600 năm, trẫm thỏa lòng rồi, chỉ mong được một nửa chăng. Thiên cơ nhà ngươi khó nói rõ, sao chẳng giữ kín trong một túi gấm, để ở trong kho, đời đời truyền lại chớ để mất, đến khi có nạn gấp gáp, ắt mở ra xem có thể được chăng?  
Cơ đáp: Bề tôi cũng có ý ấy! Rồi lại ca rằng: Chín thước lụa hồng ba thước đao, khuyên anh để ý lúc chơi bời, tôn quý hoạn quan chẳng sửa sang quân đội, chỉ có người Hồ Hai Tám thu. Bề tôi bọc kín ở trong hộp, về sau khi mở ra sẽ thấy ứng nghiệm.
Hoa Quế nở bung thật anh hùng, làm nứt vỡ trường thành dốc hết hiếu trung (Ngô Tam Quế ra khỏi quan ải xin viện binh), thiên hạ của nhà Chu một lần nữa trở lại, hái hết hoa Mận uổng công khó nhọc. đầu Vịt Xanh trên lưng con Bò, an hưởng quốc gia ngọc ngà cùng thóc lúa, mây che giữa mùa thu mờ mịt đường đi, người Hồ vẫn như xưa người Hồ ác độc, quay trở lại bẻ hoa Quế (Tam Quế quy thuận, sau chống lại nên bị tiêu diệt). Nước ngấm vào cung Trăng Vua đứng ở trên (chữ Thanh),  Thóc lúa một Cây đều bỏ hết, Hai Mươi Ba người ở Tám phương.
 (lại nói về việc nhà Minh coi trọng hoạn quan, và việc của Ngô Tam Quế. Hoàng Thái Cực ở sông Áp Lục, “Hồ nhân Nhị Bát thu” là nhà Thanh 280 năm. Thủy Nguyệt Chủ hợp lại là chữ Thanh . Bát phương chỉ Bát Kỳ)

  帝曰二十三人亂朕天下八方安居否
  基曰臣罪該萬死不敢隱瞞至此大明天下亡之久矣

Phiên âm

Đế viết: Nhị thập tam nhân loạn trẫm thiên hạ, bát phương an cư hồ?
Cơ viết: Thần tội cai vạn tử, bất cảm ẩn man. chí thử Đại Minh thiên hạ vong cửu hỹ.
Tạm dịch
Vua hỏi: 23 người làm loạn thiên hạ của trẫm, ở yên tám phương ư?  
Cơ đáp: Bề tôi tội đáng chết muôn lần, chẳng dám dối dá giấu giếm, đến lúc ấy thiên hạ của Đại Minh mất lâu rồi. 

  帝大驚即問此人生長何方若何衣冠稱何國號治天下何如
  基曰還有胡人二八秋二八胡人二八憂二八牛郎二八月二八姮娥配土牛
Phiên âm
Đế đại kinh tức vấn: Thử nhân sinh trưởng hà phương? Nhược hà y quan? Xưng hà quốc hiệu? Trị thiên hạ hà như?
Cơ viết: Hoàn hữu Hồ nhân Nhị Bát thu, Nhị Bát Hồ nhân Nhị Bát ưu, Nhị Bát Ngưu Lang Nhị Bát Nguyệt, Nhị Bát hằng nga phối Thổ Ngưu.

Tạm dịch

Vua rất sợ bèn hỏi: Người ấy sinh ra lớn lên ở chốn nào? Ăn mặc ra sao? Quốc hiệu là gì? Trị thiên hạ như thế nào?    
Cơ đáp: Lại là người Hồ Hai Tám mùa thu, Hai Tám người Hồ Hai Tám lo lắng, Hai Tám chàng chăn Trâu Hai Tám mặt trăng, Hai Tám hằng nga lấy Trâu Đất.
(“Hồ nhân Nhị Bát thu” nhà Thanh ở Trung Quốc 280 năm; “Nhị Bát Hồ nhân Nhị Bát ưu”  Nhị + Bát =  Thập    là nhà Thanh có 10 vua, 280 năm người Hán lo phục quốc; “ Nhị Bát Ngưu Lang Nhị Bát Nguyệt” 2 x 8 = 16, nhà Minh 16 vua được 280 năm, Ngưu Lang là chỉ họ Chu, kết thúc do đất Tần nổi dậy, tháng 2 tháng 8 là nửa mùa Xuân nửa mùa Thu, nửa chữ Xuân với nửa chữ Thu là chữ Tần , Lý Tự Thành người đất Tần; “Nhị Bát hằng nga phối Thổ Ngưu” Trường Bình công chúa 16 tuổi gả cho Chu Hiển-còn gọi là Chu Thế Hiển)

  帝曰自古胡人無百年之國運乃此竟有二百餘年之運耶
  基曰雨水草頭真主出(满洲)赤頭童子皆流血,倒置三元總纔說。須是川頁合成出(順治)十八年間水火奪庸人不用水火臣(康熙)此中自己用漢人卦分氣數少三數(在位六十一年)親上加親又配親

Phiên âm

Đế viết: Tự cổ Hồ nhân vô bách niên chi quốc vận, nãi thử cánh hữu nhị bách dư niên chi vận da?
Cơ viết: Vũ Thủy Thảo đầu chân Chủ xuất (Mãn Châu), Xích Đầu đồng tử giai lưu huyết, đảo trí Tam Nguyên tổng sàm thuyết, tu thị Xuyên Hiệt hợp thành xuất. Dung nhân bất Dụng Thủy Hỏa Thần (Khang Hy), thử trung tự kỷ dụng Hán nhân, Quái phân khí số thiểu tam số (tại vị lục thập nhất niên), thân thượng gia thân hựu phối thân.

Tạm dịch

Vua nói: Từ xưa vận nước của người Hồ không bao giờ được 100 năm, đến bấy giờ lại được hơn 200 năm ư? 
Cơ đáp: Nước Mưa ngọn Cỏ chân chúa ra đời (Mãn Châu); Đầu Đỏ trẻ con đều máu chảy; Tam Nguyên bị xếp ngược, tóm lại là nói nhảm; nên là Đầu Dòng Nước hợp lại mà thành. Người Thường chẳng Dùng Bề Tôi Nước Lửa (Khang Hy); trong lúc ấy bắt đầu dùng người Hán; khí số của các Quẻ chia ra thiếu 3 số (ở ngôi 61 năm);  trên người nhà có thêm người nhà, lại lấy người nhà.  
(chữ Vũ gần giống chữ Lưỡng hợp với chữ Thủy chữ Thảo là chữ Mãn 滿 . “Xích Đầu” là đầu trần, chỉ việc để tóc như trẻ con, đây là thảm sát của nhà Thanh với người Hán, với hiệu lệnh “để tóc thì mất đầu, muốn còn đầu thì cạo tóc”. “Tam Nguyên đảo trí” là nói người Hồ “mọi rợ” lại đè đầu cưỡi cổ người Hán “văn minh”! Chữ Xuyên với chữ Hiệt là chữ Thuận . Chữ Khang là chữ Dung bỏ chữ Dụng thay bằng chữ Thủy, chữ Hy có chữ gần giống Thần và chữ Hỏa . Trùng Quái có 64 quẻ, thiếu 3 quẻ còn 61. “thân thượng gia thân hựu phối thân” là chuyện Khang Hy với bà cô.)

  帝曰胡人至此用人水奪火滅親上加親莫非駙馬作亂乎
  基曰非也胡人英雄水火既濟安享太平有位有勢時值昇平稱為盛世氣數未減還有後繼寶劍重磨又重磨抄家滅族可奈何閹人社稷藏邪鬼孝弟忠奸誅戮多李花結子正逢春牛鳴二八倒插丁六十周甲多一甲螺角倒吹也無聲點畫佳人絲自分一止當年嗣失真(雍正)泥雞啼呌空無口樹產靈枝枝缺魂朝臣乞來月無光叩首各人口渺茫(乾隆)一見生中相慶賀逍遙周甲樂飢荒(在位六十年)

Phiên âm

Đế viết: Hồ nhân chí thử dụng nhân, thủy đoạt hỏa diệt, thân thượng gia thân, mạc phi phụ mã tác loạn hồ?
Cơ viết: Phi dã! Hồ nhân anh hùng, thủy hỏa ký tế, an hưởng thái bình, hữu vị hữu thế, thời trị thăng bình, xưng vi thịnh thế, khí số vị giảm, hoàn hữu hậu kế. Bảo kiếm trùng ma hựu trùng ma, sao gia diệt tộc khả nại hà, yêm nhân xã tắc tàng tà quỷ, hiếu đễ trung gian chu lục đa. Lý hoa kết quả chính phùng Xuân, Ngưu minh Nhị Bát đảo sáp Đinh, Lục Thập hoa giáp đa Nhất giáp, loa giáp đảo xuy dã vô thanh. Điểm họa Giai nhân Ty tự phân, Nhất Chỉ đương niên tự thất chân (Ung Chính), Nê Kê Đề Khiếu không vô Khẩu, thụ sản linh chi chi Khuyết Hồn. Triều thần Khất lai Nguyệt vô quang, Khấu thủ Các nhân Khẩu diểu mang (Càn Long), Nhất kiến Sinh trung tương khánh hạ, tiêu dao Chu Giáp lạc cơ hoang. (tại vị lục thập niên)

Tạm dịch

Vua hỏi: Người Hồ từ đấy dùng người, lấy nước dập lửa, trên người nhà thêm người nhà, chẳng phải là có con rể vua làm loạn ư?  
Cơ đáp: Không phải vậy! Người Hồ anh hùng, lửa nước giúp nhau thành sức mạnh, an hưởng thái bình, có địa vị có thế lực, đời được yên vui, gọi là thịnh thế, vận khí chẳng bớt đi, về sau có nối theo. Kiếm báu mài đi mài lại; nhà cửa bị tịch thu, họ hàng bị giết sạch, biết làm sao được; toàn là tà quỷ ở trong đám quan hoạn; từ người hiền lương hiếu thuận, đến kẻ gian tà đều bị giết rất nhiều. Hoa Mận kết quả là vào mùa Xuân; Trâu kêu Hai Tám đóng Đinh ngược; Sáu Mươi hoa giáp thêm Một giáp; thổi ngược cái tù và bằng ốc nên không kêu. Vẽ vời người Đẹp, sợi Tơ tự chia ra; Một lần Dừng Lại đang năm ấy, nối dõi mất đi sự chân thực (Ung Chính); Gà Bùn Gáy lên, trên không không có Mồm; cây nảy ra cành quý, cành lại thiếu Hồn. Bề tôi Triều đình Xin đến, Mặt Trăng không ánh sáng; Cúi đầu Các người Mồm xa vời (Càn Long); Một lần nhìn thấy trong lúc Sinh ra, sẽ chúc mừng; thảnh thơi Một Vòng Hoa Giáp, vui vẻ trong nạn đói (ở ngôi 60 năm).
(“Kiếm báu …. bị giết rất nhiều” là nói về nhà Minh. “Hoa Mận kết quả là vào mùa Xuân; Trâu kêu Hai Tám đóng Đinh ngược” là việc Lý Tự Thành chiếm Bắc Kinh vào mùa Xuân, nhà Minh sụp đổ. “Sáu Mươi hoa giáp thêm Một giáp” là Khang Hy ở ngôi 61 năm. “thổi ngược cái tù và bằng ốc nên không kêu” là làm chuyện ngược đời nên không thể thành sự. “Điểm họa” là chữ Chủ chỉ dấu chấm trên đầu, chữ Ty chia ra là chữ Mịch , cùng với chữ Giai thành chữ Ung . Chữ Nhất , chữ Chỉ là chữ Chính . “nối dõi mất đi sự chân thực” là nghi án Ung Chính sửa lại di chiếu để lên ngôi, hoặc là làm chiếu chỉ giả, chứ không phải được Khang Hy lựa chọn. “Nê Kê” là nói mẹ Ung Chính xuất thân hèn kém. Chữ Đề bỏ chữ Khẩu là chữ Đế  ; chữ Khiếu bỏ chữ Khẩu là chữ Đẩu , chữ Đẩu chia ra thành chữ Thập chữ Tam , là nói Ung Chính làm vua 13 năm. “cây nảy ra cành quý, cành lại Thiếu Hồn” có nghi án Càn Long là người Hán, được đánh tráo vào. Chữ Triều lấy chữ Khất thay chữ Nguyệt thành ra chữ Càn . Chữ Khấu bỏ đi chữ Khẩu còn chữ Phụ , chữ Các bỏ đi chữ Khẩu còn chữ Truy ; chữ Phụ chữ Truy thêm chữ Nhất chữ Sinh thành ra chữ Long ; nguyên chú chữ “Càn Long” đặt chưa đúng chỗ, lẽ ra phải đặt ở sau câu “Nhất kiến Sinh trung tương khánh hạ”. “Một Vòng Hoa Giáp” là 60 năm, Càn Long ở ngôi 60 năm, thích chơi bời hưởng lạc trong cảnh nạn đói xảy ra triền miên; thích việc to tát, ham thành tích công trạng, xây dựng đền đài, phát động chiến tranh, nạn tham nhũng tràn lan, dẫn tới quốc khố trống rỗng.

  帝曰胡人到此敗亡否
  基曰未也雖然治久生亂值此困苦民懷異心然氣數未盡也廿歲力士開雙口人又一心度短長(嘉慶)時俺寺僧八千眾火龍渡河熱難當叩首之時頭小兀姮娥雖有月無光(道光)太極殿前卦對卦(咸豐)添春禳斗鬧朝堂金羊水猴飢荒歲犬吠豬鳴泪兩行洞邊去水台用水方能復正舊朝綱(同治)火燒鼠牛猶自可虎入泥窩無處藏草頭家上十口女又抱孩兒作主張(光緒)二四八旗難蔽日遼陽思念舊家鄉東拜斗西拜旗南逐鹿北逐獅分南分北分東西偶逢異人在楚歸馬行萬尋殘害中女四木雞六一人不識山水倒相逢黃龍早喪赤城中豬羊雞犬九家空飢荒災害皆並至一似風登民物同得見金龍民心開刀兵水火一齊來文錢斗米無人糴父死無人兄弟抬天上金龍絆馬甲二十八星問土人蓬頭幼女蓬頭嫁揖讓新君讓舊君

Phiên âm

Đế viết: Hồ nhân chí thử bại vong phủ?
Cơ viết: Vị dã. Tuy nhiên trị cửu sinh loạn, trị thử khốn khổ, dân hoài dị tâm, nhiên khí vận vị tận dã. Nhập tuế Lực Sỹ khai Song Khẩu, nhân hựu Nhất Tâm Độ đoản trường (Gia Khánh), thời yểm Tự Tăng bát Thiên chúng, Hỏa Long độ Hà Nhiệt nan đương. Khấu Thủ chi thời đầu Tiểu Ngột, hằng nga tuy hữu Nguyệt Vô Quang (Đạo Quang). Thái Cực điện tiền Quái đối Quái (Hàm Phong), thiêm Xuân nhượng Đẩu náo triều đường, Kim Dương Thủy Hầu cơ hoang tuế, Khuyển phệ Chư minh lệ lưỡng hàng. Động biên khứ Thủy Đài dụng Thủy, phương năng phục chính cựu triều cương (Đồng Trị), hỏa thiêu Thử Ngưu do tự khả, Hổ nhập nê oa vô xứ tàng. Thảo đầu gia thượng Thập Khẩu nữ, hựu bão hài nhi tác chủ trương (Quang Tự), nhị tứ Bát kỳ nan tế nhật, Liêu Dương tư niệm cựu gia hương. Đông bái Đẩu Tây bái Kỳ, Nam trục Lộc Bắc trục Sư, phân Nam phân Bắc phân Đông Tây, ngẫu phùng dị nhân tại Sở quy. Mã hành vạn tầm tàn hại trung, Nữ tứ Mộc Kê Lục Nhất Nhân, bất thức Sơn Thủy đảo tương phùng, Hoàng Long tảo táng Xích Thành trung, Trư Dương Kê Khuyển cửu gia không, cơ hoang tai hại giai tịnh chí, nhất tự phong đăng dân vật đồng. Đắc kiến Kim Long dân tâm khai, đao binh thủy hỏa nhất tề lai, văn tiền đẩu mễ vô nhân địch, phụ tử vô nhân huynh đệ đài. Thiên thượng Kim Long bán Mã Giáp, Nhị Thập Bát tinh vấn Thổ Nhân, Bồng đầu Ấu Nữ bồng đầu giá, ấp nhượng tân quân nhượng cựu quân.   

Tạm dịch

Vua hỏi: người Hồ bấy giờ đã bại vong chưa?  
Cơ đáp: Chưa đâu! Tuy nhiên trị lâu sẽ sinh loạn. Đang lúc khốn khổ, người dân sẽ nghĩ khác đi, nhưng khí vận chưa hết. Lực Sỹ Hai Mươi tuổi mở Hai Mồm, người lại Một Lòng Đo dài ngắn (Gia Khánh), bấy giờ tám Ngàn sư được che giấu trong chùa, Rồng lửa sang Sông sức nóng khó chịu đựng được. Trong lúc cúi Đầu, Chỏm Nhỏ trên đầu; tuy có hằng nga Trăng không có Ánh Sáng (Đạo Quang). Trước điện Thái Cực Quẻ nhìn Quẻ (Hàm Phong); thêm Xuân nhường địa vị làm rối triều đình; Dê Vàng, Khỉ Nước năm có nạn đói; Chó sủa Lợn kêu nước mắt chảy hai hàng. Bên Hang Nước chảy đi, Đài dùng Nước; có thể dựng lại triều đình cũ (Đồng Trị); lửa cháy Chuột Trâu vẫn có thể; Hổ vào vũng bùn không chỗ giữ. Đầu Cỏ trên nhà, Con Gái Mười Mồm; lại ôm con nhỏ nắm giữ các việc (Quang Tự); Bát Kỳ không thể che được mặt trời; nghĩ về quê cũ ở Liêu Dương. Đông lạy Vua, Tây chào Cờ; Nam đuổi Hươu, Bắc đuổi Sư Tử; chia Bắc chia Nam chia Đông Tây; chợt gặp dị nhân ở đất Sở quay về. Ngựa đi muôn sải (tay) trong tàn hại; Con gái bốn con Gà Gỗ, Sáu Một người; chẳng biết Nước Núi lộn lại gặp nhau; Rồng Vàng sớm chôn ở Thành Đỏ; Lợn Dê Gà Chó chín nhà rỗng; đói kém, tai hại đều cùng đến; tựa như gió nổi lên, người và vật cùng nhau. Được thấy Rồng Vàng, dân mở lòng; nạn binh đao thủy hỏa cùng đến một lúc; một đồng cắc một đấu gạo không ai đong; bố chết không người, anh em khiêng. Trên trời Rồng Vàng ngăn Giáp Ngựa; Hai Tám vì sao hỏi Người Đất; bé gái đầu rối bù, đầu rối bù lấy chồng; xin nhường vua mới, nhường vua cũ.
(chữ Nhập 廿 chữ Lực chữ Sỹ hai chữ Khẩu ghép thành chữ Gia , chữ Nhất chữ Tâm chữ Độ ghép thành chữ Khánh ; “thời yểm Tự Tăng bát Thiên chúng” thời Gia Khánh có các cuộc nổi dậy của Bạch Liên Giáo, Thiên Lý Giáo, hai phái Phật giáo; “Hỏa Long độ Hà Nhiệt nan đương” người đời nói rằng, Gia Khánh chết ở Nhiệt Hà là do một quả cầu lửa bay vào trong phòng, rồi nổ tung, nên bị chết cháy, cái mà bây giờ gọi là Sét Hòn. Chữ Thủ chữ Chi ghép thành chữ Đạo ; chữ Tiểu chữ Ngột ghép thành chữ Quang ; “Trăng không có Ánh Sáng” là ngày cuối tháng âm lịch, Đạo Quang ở ngôi 30 năm. “Thái Cực điện tiền Quái đối Quái” quẻ Hàm và quẻ Phong là hai quẻ trong 64 trùng Quái, Hàm Phong lên ngôi ở điện Thái Cực; “thiêm Xuân” là nói về “ngũ Xuân” ở vườn Viên Minh, Hàm Phong chơi bời rượu, gái, thuốc phiện, sức lực đâu mà trị nước. “Kim Dương” là mùa thu năm Mùi; “Thủy Hầu” là mùa đông năm Thân, Bắc Kinh bị liên quân Anh Pháp tấn công, vườn Viên Minh bị đốt. “Khuyển phệ Chư minh” Từ Hy bắt đầu nhiếp chính, đã loạn lại càng thêm loạn. Chữ Động bỏ đi chữ Thủy còn lại chữ Đồng ; chữ Đài thêm chữ Thủy thành ra chữ Trị . “Thảo đầu gia thượng” là chữ Từ , chữ Thập chữ Khẩu chữ Nữ là chữ Hy , đồng âm với chữ Hy ; “hựu bão hài nhi tác chủ trương” là nói về việc Quang Tự còn nhỏ, Từ Hy nhiếp chính.  Liêu Dương là quê nhà của người Mãn, cuối cùng thì người Mãn đã trở về quê. “Tây bái Kỳ” là người phương Tây ở Trung Hoa. “Nam trục Lộc Bắc trục Sư, phân Nam phân Bắc phân Đông Tây” khởi nghĩa Vũ Xương và thành lập Dân Quốc, Trung Quốc chia năm sẻ bảy. “dị nhân tại Sở” đất Sở tức là Hồ Nam bây giờ, Tăng Quốc Phiên, Mao Trạch Đông đều là người ở đấy. “muôn tầm” Tầm là đơn vị đo chiều dài, một sải tay, thường thì sải tay của ai thì bằng chiều cao của người ấy, 1 tầm = 8 thước. )

  帝曰胡人至此敗亡否
  基曰手執鋼刀九十九殺盡胡人方罷休炮响火煙迷去路遷南遷北六三秋可憐難渡之門關摘盡李花胡不還黃牛山上有一洞可投拾萬八千眾先到之人得安穩後到之人半路送難恕有罪無不罪天下算來民盡瘁火風鼎兩火初興定太平火山旅銀河織女讓牛星火德星君來下界金殿樓臺盡丙丁一個鬍子大將軍按劍馳馬察情形除暴去患人多愛永享九州金滿籯

Phiên âm

Đế viết: Hồ nhân chí thử vong hồ?
Cơ viết: Thủ chấp Kim Đao Cửu Thập Cửu, sát tận Hồ nhân phương bãi hưu, pháo hưởng hỏa yên mê khứ lộ, thiên Nam thiên Bắc Lục Tam thu. Khả lân nan độ chi môn quan, trích tận Lý hoa Hồ bất hoàn. Hoàng Ngưu sơn hạ hữu nhất động, khả đầu thập vạn bát thiên chúng, tiên đáo chi nhân đắc an ổn, hậu đáo chi nhân bán lộ tống. Nan thứ hữu tội vô bất tội, thiên hạ toán lai dân tận tụy. Hỏa Phong Đỉnh, Lưỡng Hỏa sơ hưng định thái bình, Hỏa Sơn Lữ, Ngân Hà Chức Nữ nhượng Ngưu tinh, Hỏa Đức Tinh Quân lai hạ giới, kim điện lâu đài tận Bính Đinh. Nhất cá Hồ Tử đại tướng quân, án kiếm trì mã sát tình hình, trừ bạo khử hoạn nhân đa ái, vĩnh hưởng Cửu Châu kim mãn doanh.   

Tạm dịch

Vua hỏi: Người Hồ bấy giờ đã bại vong chưa?    
Cơ đáp: Tay cầm Đao Vàng Chín, Mười, Chín; giết sạch người Hồ mới chịu thôi, pháo nổ lửa khói mù mịt đường đi; chuyển về Nam, chuyển về Bắc, Sáu, Ba mùa thu. Khá thương khó vượt qua được cửa quan ở biên giới; bẻ sạch hoa Mận, người Hồ chẳng quay lại. Dưới núi Hoàng Ngưu có một cái động; có thể chứa được mười vạn tám ngàn người; người nào đến trước được yên ổn; người nào đến sau, nửa đường bị đưa đi. Khó có thể tha thứ cho việc có tội, không gì là chẳng có tội; thiên hạ tính toán đến đây, người dân đã gắng hết sức. Lửa và Gió là quẻ Đỉnh; Hai Lửa vừa dấy lên là lúc thái bình; Lửa và Núi là quẻ Lữ; trên Ngân Hà sao Chức Nữ nhường sao Ngưu Lang; Hỏa Đức Tinh Quân xuống dưới trần; cung điện lâu đài ở cuối của Bính Đinh. Một người râu xồm làm đại tướng; cầm kiếm ruổi ngựa xem xét tình hình; loại bỏ kẻ bạo ngược, làm hết nỗi lo lắng, người người đều rất mến; mãi được hưởng phúc trong Chín Châu, vàng đầy hòm.
(Lưỡng Hỏa là chữ Viêm , Bính Đinh thuộc phương Nam; Ngưu, Nữ là sao trong Nhị thập bát tú.)

帝曰胡人此時尚在否
基曰胡人至此亡之久矣四大八方有文星品物咸亨一樣形琴瑟和諧成古道左中興帝右中興五百年間出聖君周流天下賢良輔氣運南方出將臣聖人能化亂淵源八面夷人進貢臨宮女勤針望夜月乾坤有象重黃金北方胡虜害生靈更會南軍誅戮行匹馬單騎安外國眾君揖讓留三星上元復轉氣運開大修文武聖主裁上下三元無倒置衣冠文物一齊來七元無錯又三元大開文風考對聯猴子沐盤雞逃架犬吠豬鳴太平年文武全才一戊丁流離散亂皆逃民愛民如子親兄弟創立新君修舊京千言萬語知虛實留與蒼生作證盟

Phiên âm

Đế viết: Hồ nhân chí thử thượng tại phủ?
Cơ viết: Hồ nhân chí thử vong cửu hỹ! Tứ đại bát phương hữu Văn tinh, phẩm vật hàm hanh nhất dạng hình, cầm sắt hòa hài thành cổ đạo, tả trung hưng đế hữu trung hưng. Ngũ bách niên gian xuất Thánh Quân, chu lưu thiên hạ hiền nhân phụ, khí vận Nam phương xuất tướng thần. Thánh nhân năng hóa loạn uyên nguyên, bát diện di nhân tiến cống lâm, cung nữ cần châm vọng dạ nguyệt, Càn Khôn hữu tượng trọng hoàng kim. Bắc phương Hồ lỗ hại sinh linh, cánh hội Nam quân chu lục hành, thất mã đơn kỵ an ngoại quốc, chúng quân ấp nhượng lưu tam tinh. Thượng Nguyên phục chuyển khí vận khai, đại tu văn vũ Thánh chủ tài, Thượng Hạ Tam Nguyên vô đảo trí, y quan văn vật nhất tề lai. Thất Nguyên bất thác hựu Tam Nguyên, đại khai văn phong khảo đối liên, Hầu tử mộc bàn Kê đào giá, Khuyển phệ Chư minh thái bình niên. Văn vũ toàn tài nhất Mậu Đinh, lưu ly tán loạn giai đào dân, ái dân như tử thân huynh đệ, sáng lập tân quân tu cựu kinh. Thiên ngôn vạn ngữ tri hư thực, lưu dữ thương sinh tác chứng minh!

Tạm dịch

Vua hỏi: Người Hồ lúc bấy giờ còn không?
Cơ nói: Người Hồ mất lâu rồi! Bốn phương tám hướng có văn tinh; muôn vật thỏa sức sinh sôi nảy nở giống như nhau; đàn Cầm đàn Sắt âm thanh hòa quyện thành đạo của người xưa; bên trái vua trung hưng, bên phải cũng trung hưng. Trong 500 năm có Vua Thánh ra đời; các bậc hiền lương khắp trong thiên hạ đều giúp sức; khí vận ở phương Nam có bề tôi là tướng ra đời. Thánh Nhân có khả năng thay đổi được nguồn gốc sinh ra loạn lạc; tám hướng người Di mang đồ tiến cống đến; cung nữ chịu khó thêu thùa đan lát, trông trăng ban đêm; Trời Đất có hình tượng của việc nặng về vàng bạc. Phương Bắc người Hồ cướp phá giết tróc; lại gặp quân phương Nam làm chuyện chém giết; một người một ngựa ở nước ngoài; các vua xin nhường, giữ lại ba vì sao. Thượng Nguyên quay lại vận khí mở ra; sửa sang văn võ, Thánh nhân vun đắp; trên dưới Tam Nguyên không bị xếp ngược; trang phục, văn hóa tốt đẹp cùng đến một lúc. Thất Nguyên chẳng sai, lại Tam Nguyên; mở rộng phong cách làm văn, khảo về câu đối; con Khỉ tắm trên Mâm, con Gà nhảy khỏi Giá Đỡ; Chó sủa Lợn kêu là năm thái bình. Văn võ toàn tài một Mậu Đinh; chia ra đi lung tung đều là người dân bỏ chạy; yêu mến người dân như con, như anh em ruột thịt; sáng lập vua mới, sửa lại kinh đô cũ. Ngàn lời muôn câu biết là sai hay đúng, giữ lại với mọi người để xem đúng hay sai!
(Thất Nguyên, là chu kỳ vận hành của Thất Chính, tức là Ngũ tinh Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ và Nhật Nguyệt. Theo phép làm lịch lấy chu kỳ của Nhị Thập Bát Tú phối hợp với chu kỳ của Lục Thập Hoa Giáp thành Thất Nguyên. Nhất Nguyên Giáp Tý khởi tính từ Hư, Nhị Nguyên Giáp Tý khởi tính từ Khuê, Tam Nguyên Giáp Tý khởi tính từ Tất, Tứ Nguyên Giáp Tý khởi tính từ Quỷ, Ngũ Nguyên Giáp Tý khởi tính từ Dực, Lục Nguyên Giáp Tý khởi tính từ Đê, Thất Nguyên Giáp Tý khởi tính từ Cơ. Một chu kỳ là 420, gồm 7 nguyên của Lục Thập Hoa Giáp.)

Chú thích:
-Chữ Hán trong ngoặc đơn là chú thích của nguyên văn.
-Trong ngoặc đơn sau mỗi phần là tạm chú thích, tham khảo từ nhiều nguồn khác nhau.