Mai Hoa thi
宋邵康節先生梅花詩十章詳解
Tống Thiệu Khang Tiết tiên sinh
Mai Hoa Thi thập chương tường giải
其一
蕩蕩天門萬古開
幾人歸去幾人來
山河雖好非完璧 (宋室偏安)
不信黃金是禍胎 (金人入寇)
Phiên âm
Kỳ nhất
Đãng đãng Thiên Môn vạn cổ khai
Kỷ nhân quy khứ kỷ nhân lai
Sơn hà tuy hảo vô hoàn bích (Tống thất thiên an)
Bất tín hoàng Kim thị họa
thai (Kim nhân nhập khấu)
Tạm dịch
Kỳ một
Cửa Trời rộng mở tự ngàn xưa
Bao nhiêu người đi về bao nhiêu
người trở lại
Non sông tuy rằng tốt đẹp nhưng
không phải là tốt cả (nhà Tống yên ổn một phía)
Chẳng tin vào việc Vàng lại là mầm
họa (người Kim vào cướp phá)
其二
湖山一夢事全非 (建都臨安)
再見雲龍向北飛 (元兵入臨安恭宗北狩)
三百年來終一日 (帝昺)
長天碧水嘆彌彌 (帝昺赴海)
Phiên âm
Kỳ nhị
Hồ sơn nhất mộng sự toàn phi (kiến
đô Lâm An)
Tái kiến vân long hướng bắc phi
(Nguyên binh nhập Lâm An, Cung Tông bắc thú)
Tam bách niên lai chung nhất nhật
(Đế Bính)
Trường thiên bích hải thán di di
(Đế Bính phó hải)
Tạm dịch
Kỳ hai
Giấc mộng núi hồ tan biến cả (dựng
đô ở Lâm An-Nam Tống)
Lại thấy mây rồng bay về phía bắc
(quân Nguyên vào Lâm An, Cung Tông bị bắt đưa về phương Bắc)
Ba trăm năm kết thúc trong một
ngày (chỉ Đế Bính-chữ Bính có chữ Nhật)
Trời rộng biển xanh buông tiếng
thở dài (Đế Bính nhảy xuống biển)
其三
天地相乘數一原 (元凡十世)
忽逢甲子又興元 (元世祖忽必烈)
年華二八乾坤改 (元祚八十八年)
看盡殘花總不言 (宦官撲不花)
Phiên âm
Kỳ tam
Thiên địa tương thừa số nhất
nguyên (Nguyên phàm thập thế)
Hốt phùng giáp tý hựu hưng nguyên
(Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt)
Niên hoa nhị bát càn khôn cải
(Nguyên tộ bát thập bát niên)
Khán tận tàn hoa tổng bất ngôn
(hoạn quan Phác Bất Hoa)
Tạm dịch
Kỳ ba
Trời đất nhân lên được một nguyên
(nhà Nguyên được 10 đời vua)
Chợt gặp giáp tý lại bắt đầu dấy
lên (Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt)
Tuổi hoa đôi tám càn khôn đổi
(nhà Nguyên hưởng phúc 88 năm)
Xem hết hoa tàn chẳng còn lời nào
nữa (hoạn quan Phác Bất Hoa)
其四
畢竟英雄起布衣 (明太祖崛起微賤)
朱門不是舊黃畿 (改都金陵)
飛來燕子尋常事 (燕王簒位)
開到李花春已非 (李自成作亂而明祚亡矣)
Phiên âm
Kỳ tứ
Tất cánh anh hùng khởi bố y (Minh
Thái Tổ quật khởi vi tiện)
Chu môn bất thị cựu hoàng kỳ (cải
đô Kim Lăng)
Phi lai yến tử tầm thường sự (Yên
vương soán vị)
Khai đáo lý hoa xuân dĩ phi (Lý Tự
Thành tác loạn, Minh tộ vong hỹ)
Tạm dịch
Kỳ bốn
Cuối cùng anh hùng dấy lên áo vải
(Minh Thái Tổ xuất thân nghèo hèn)
Cửa son chẳng phải kinh đô cũ (dựng
đô ở Kim Lăng)
Chim én bay lại việc thường thế
(Yên vương cướp ngôi)
Nở đến hoa mận không còn là mùa
xuân nữa (Lý Tự Thành làm loạn, nhà Minh hết phúc)
其五
胡兒騎馬走長安 (清兵入關)
開辟中原海境寬 (夷人通商)
洪水乍平洪水起 (洪秀全黎元洪)
清光宜向漢中看 (辛亥八月武昌起義)
Phiên âm
Kỳ ngũ
Hồ nhi kỵ mã tẩu trường an (Thanh
binh nhập Quan)
Khai tịch trung nguyên hải cảnh
khoan (Di nhân thông thương)
Hồng thủy sạ bình hồng thủy khởi
(Hồng Tú Toàn, Lê Nguyên Hồng)
Thanh quang nghi hướng hán trung
khan (Tân Hợi bát nguyệt Vũ Xương khởi nghĩa)
Tạm dịch
Kỳ năm
Người Hồ cưỡi ngựa chạy ở Trường
An (lính Thanh vào quan ải)
Mở toang trung nguyên, trong biển
rộng rãi (người Di buôn bán qua lại)
Nước lụt chợt rút, nước lụt lại
dâng lên (Hồng Tú Toàn, Lê Nguyên Hồng)
Ánh sáng trong trẻo, hướng tốt,
nhìn trong sông Hán (khởi nghĩa Vũ Xương tháng 8 năm Tân Hợi)
其六
漫天一白漢江秋 (武昌起義民軍尙白)
憔悴黃花總帶愁 (黃興)
吉曜半升箕斗隱 (袁世凱應召講和)
金烏起滅海山頭
肖琴按原註似嫌太驟首句指武昌起義誠然二句乃言炎黄遺胄猶在愁城中蓋日本崛起積極侵華即所謂吉曜是也而中原君子如箕斗之晦無復主張一任此金烏自起自滅於海山頭也
Phiên âm
Kỳ lục
Mạn thiên nhất bạch hán giang thu
(Vũ Xương khởi nghĩa, dân quân thượng bạch)
Tiều tụy hoàng hoa tổng đới sầu
(Hoàng Hưng)
Cát diệu bán thăng cơ đẩu ẩn
(Viên Thế Khải ứng triệu giảng hòa)
Kim ô khởi diệt hải sơn đầu
Tiếu Cầm án nguyên chú, tự hiềm
thái sậu. Thủ cú chỉ Vũ Xương khởi nghĩa, thành nhiên nhị cú nãi ngôn Viêm
Hoàng di trụ do tại sầu thành trung. Cái Nhật Bản quật khởi, tích cực xâm Hoa,
tức sở vị cát diệu thị dã, nhi trung nguyên quân tử như Cơ Đẩu hối, vô phục chủ
trương nhất nhiệm. Thử Kim Ô tự khởi, tự diệt ư Hải Sơn đầu dã.
Tạm dịch
Kỳ sáu
Đầy trời một màu trắng, mùa thu ở
sông Giang, sông Hán (khởi nghĩa Vũ Xương, dân quân chuộng màu trắng)
Xơ xác hoa vàng, tất cả đều mang
vẻ buồn bã (chỉ Hoàng Hưng)
Sao lành lên đến nửa chừng, sao
Cơ, sao Đẩu lặn (Viên Thế Khải giảng hòa)
Quạ vàng dấy lên rồi mất đi ở đầu
núi trên biển
Tiếu Cầm dựa theo chú giải của
nguyên bản, tựa như có chỗ đáng ngờ. Câu đầu chỉ về việc khởi nghĩa ở Vũ Xương,
tin rằng câu thứ hai là nói về nỗi buồn của con cháu Viêm Đế, Hoàng Đế. Nhật Bản
dấy lên, tích cực xâm chiếm Trung Hoa, nên nói là “cát diệu bán thăng” vậy, mà
những người khá ở trung nguyên như sao Cơ, sao Đẩu mờ tối, chẳng có cách gì
giúp phục hồi. Đấy là Kim Ô tự dấy lên, tự diệt vong ở Hải Sơn Đầu.
其七
雲霧蒼茫各一天
可憐西北起烽煙
東來暴客西來盜
還有胡儿在眼前
Phiên âm
Kỳ thất
Vân vụ thương mang các nhất thiên
Khả lân tây bắc khởi phong yên
Đông lai bạo khách tây lai đạo
Hoàn hữu hồ nhi tại nhãn tiền
Tạm dịch
Kỳ bảy
Mây mù dầy đặc cả bầu trời
Khá thương tây bắc nổi khói lửa
Khách lại từ phía đông thì hung bạo,
trộm cắp lại từ phía tây
Lại là người Hồ ở trước mắt
其八
如棋世事局初殘
共濟和衷卻大難
豹死猶留皮一襲
最佳秋色在長安
Phiên âm
Kỳ bát
Như kỳ thế sự cục sơ tàn
Cộng tế hòa trung khước đại nan
Báo tử do lưu bì nhất tập
Tối giai thu sắc tại trường an
Tạm dịch
Kỳ tám
Thế sự như cuộc cờ bắt đầu vào
lúc cuối
Cùng một lòng đẩy lui khó khăn
Báo chết để lại một bộ da
Mùa thu rất đẹp ở Trường An
其九
火龍蟄起燕門秋
原璧應難趙氏收
一院奇花春有主
連宵風雨不須愁
Phiên âm
Kỳ cửu
Hỏa long chập khởi yến môn thu
Nguyên bích ưng nan triệu thị thu
Nhất viện kỳ hoa ưng hữu chủ
Liên tiêu phong vũ bất tu sầu
Tạm dịch
Kỳ chin
Rồng lửa bùng lên vào mùa thu ở cửa
chim én
Ngọc bích họ Hòa họ Triệu khó lấy
về (vật khó về chủ cũ)
Một vườn hoa lạ đã có chủ
Suốt đêm mưa gió chẳng nên buồn
其十
數點梅花天地春
欲將剝复問前因
寰中自有承平日
四海為家孰主賓
Phiên âm
Kỳ thập
Sổ điểm mai hoa thiên địa xuân
Dục tương bác phục vấn tiền nhân
Hoàn trung tự hữu thừa bình nhật
Tứ hải vi gia thục chủ tân
Tạm dịch
Kỳ mười
Vài bông mai nở trời đất là mùa
xuân
Muốn biết sắp Bác Phục thì phải hỏi
nguồn cơn trước đấy
Trong cõi đời tự có ngày yên ổn
Bốn bể một nhà, ai là chủ, ai là
khách
按原本無註釋兹就其經過者於每句下畧注一二其未來者不敢臆度讀者諒之清溪散人識
Phiên âm
Án nguyên bản vô chú thích, tư tựu
kỳ kinh quá giả, ư mỗi cú hạ lược chú nhất nhị. Kỳ vị lai giả, bất cảm ức độ, độc
giả lượng chi. Thanh Khê Tán Nhân chí.
Tạm dịch
Theo nguyên bản không có chú
thích, nay theo việc đã qua, ở dưới mỗi câu chú giải qua một vài điều. Còn việc
chưa đến, chẳng dám ức đoán, người đọc bỏ qua cho. Thanh Khê Tán Nhân ghi chép.
按散人注至第六首止鄙意第七首首句明指國中昏亂東來句指軍閥之各據地盤胡兒在眼前明說宣統之優游於京師也第八首言共和政體之大難三四兩句言官僚派之祇爭權利不顧聲名也九首指復辟之大福不再而黎元洪之復總統也第十首三四句指大同景象中外一家也
Phiên âm
Án Tán Nhân chú chí đệ lục thủ. Bỉ
ý đệ thất thủ, thủ cú chỉ quốc trung hôn loạn, đông tây cú chỉ quân phiệt chi
các cứ địa bàn, Hồ nhi tại nhãn tiền minh thuyết Tuyên Thống chi ưu du ư kinh
sư dã. Đệ bát thủ ngôn Cộng Hòa chính thể chi đại nạn, tam tứ cú ngôn quan liêu
phái chi tranh quyền lợi, bất cố thanh danh dã. Cửu thủ chỉ phục tịch chi đại
phúc bất tái, nhi Lê Nguyên Hồng chi phục tổng thống dã. Đệ thập thủ tam tứ cú
chỉ đại đồng cảnh tượng, Trung ngoại nhất gia dã.
Tạm dịch
Như Tán Nhân chỉ chú giải đến bài
thứ sáu. Theo ý kém cỏi (của tôi), bài thứ bảy, câu đầu chỉ trong nước rối ren
mờ tối, câu “đông tây” chỉ các vùng quân phiệt chiếm giữ, “người Hồ ở trước mắt”
là nói rõ việc Tuyên thống thanh nhàn ở kinh sư. Bài thứ tám nói về nạn lớn của
chính thể cộng hòa, câu ba câu bốn là nói về phái quan liêu tranh giành quyền lợi,
chẳng màng gì tới điều tiếng. Bài thứ chín chỉ việc phục hồi nhưng phúc lớn chẳng
còn, mà Lê Nguyên Hồng lại trở lại làm tổng thống. Bài thứ mười, câu ba câu bốn
chỉ về cảnh tượng đại đồng, Trung Quốc và nước ngoài là một nhà.
Chú thích
-Chữ Hán trong dấu ngoặc đơn, sau
các câu thơ, là chú thích của Thanh Khê Tán Nhân.
-Bài thứ sáu, chú thích sau bài
là của Chu Tiếu Cầm, cách lý giải khác với Thanh Khê Tán nhân.
-Lời chú thích cuối cùng không rõ
của ai. Bản của Chu Tiếu Cầm đã loại bỏ lời chú thích này. Có lẽ họ Chu cho rằng
nó không xác đáng. Xét lời chú ấy, thấy người viết có vẻ “sốt ruột” mong đến
ngày “thế giới đại đồng”. Bài 1 nói về Kim xâm lược Tống, bài 2 nhà Nam Tống sụp
đổ, bài 3 là nhà Nguyên, bài 4 là nhà Minh, bài 5 là nhà Thanh cho đến khởi
nghĩa Vũ Xương, bài 6 nói về Dân Quốc cho đến Nhật đầu hàng vô điều kiện. Thế
mà chỉ từ khi thành lập Dân Quốc cho đến quân phiệt cát cứ, lại được “ưu tiên”
mô tả từ bài 7 đến bài 9. Ở đây giữ nguyên không lược bỏ, nhằm cung cấp tài liệu
cho độc giả tham khảo. Nữa là để cho “vui”!