Chủ Nhật, 8 tháng 7, 2018

Tàng Đầu Thi



Tàng Đầu Thi
藏頭詩
唐朝司天監李風著
Tàng Đầu Thi
Đường triều Ty Thiên Giám Lý Thuần Phong trước
唐太宗貞觀七年五月十九日
Đường Thái Tông Trinh Quán thất niên ngũ nguyệt thập cửu nhật
Tạm dịch:
Sách Tàng Đầu Thi do Lý Thuần Phong, là quan Ty Thiên Giám, làm ra, vào ngày 19 tháng 5 năm Trinh Quán thứ 7, đời vua Đường Thái Tông (năm 632 Tây lịch)
太宗問於李湻風曰朕之天下今稍定矣卿深明易道不知何人始喪我國家以及我朝之後登基者何人得傳者何代卿為朕歷歷言之
對曰欲知將來當觀已往得賢者治失賢者喪此萬世不易之道也
Phiên âm
Thái Tông vấn ư Lý Thuần Phong viết: Trẫm chi thiên hạ sảo định hỹ. Khanh thâm minh Dịch đạo, bất tri hà nhân thủy táng ngã quốc gia, dĩ cập ngã triều chi hậu đăng cực giả hà nhân, đắc truyền giả hà đại. Khanh vị trẫm lịch lịch ngôn chi.
Đối viết: Dục tri tương lai, đáng quan dĩ vãng. Đắc hiền giả trị, thất hiền giả táng, thử vạn thế bất dịch chi đạo dã.
Tạm dịch
Thái Tông hỏi Lý Thuần Phong rằng: Thiên hạ của trẫm đã tạm ổn định. Nhà ngươi biết sâu về Dich đạo, (mà lại) không biết ai là người đầu tiên làm mất nhà nước của ta, tiếp theo triều đại của ta, sau này ai sẽ là người lên ngôi báu, truyền lại là thời nào? Nhà ngươi hãy vì ta mà nói ra
(Thuần Phong) Đáp rằng: Muốn biết việc về sau, nên biết việc đã qua. Được người hiền tài sẽ đâu vào đấy, mất người hiền tài sẽ hỏng. Đấy là cái lẽ muôn đời không thay đổi

太宗曰朕所問者非此之謂也欲卿以術數之學推我朝得享幾許年至何人亂我國家何人亡我國家何人得我國家以及代代相傳朕欲預知之耳
風曰此乃天機臣不敢洩
Phiên âm
Thái Tông viết: Trẫm sở vấn giả phi thử chi vị dã. Dục khanh dĩ thuật số chi học, suy ngã triều đắc hưởng kỷ hứa niên? Chí hà nhân loạn ngã quốc gia, hà nhân vong ngã quốc gia, hà nhân đắc ngã quốc gia, dĩ cập đại đại tương truyền? Trẫm dục dự tri chi nhĩ.
Thuần Phong viết: Thử nãi Thiên Cơ, thần bất cảm tiết.
Tạm dịch
Thái Tông nói: Việc trẫm hỏi không phải là việc ấy. (Ta) Muốn nhà ngươi lấy cái học về Thuật Số, suy đoán triều đại ta kéo dài được bao nhiêu năm? Đến ai sẽ là người làm rối tung nhà nước của ta, ai sẽ là người làm mất nhà nước của ta, ai sẽ là người có được nhà nước của ta, lấy đấy truyền lại đời đời? Ta muốn biết lời đoán trước (về các việc ấy).
Thuần Phong đáp: Đấy là Máy Trời, bề tôi không dám rò rỉ.

太宗曰言出卿口入朕之耳惟卿與朕知之他人皆不能知也卿必為朕言之
風曰臣不敢洩漏
Phiên âm
Thái Tông viết: Ngôn xuất khanh khẩu, nhập trẫm chi nhĩ. Duy khanh dữ trẫm tri chi, tha nhân giai bất tri dã. Khanh tất vị trẫm ngôn chi.
Thuần Phong viết: Thần bất cảm tiết lậu.
Tạm dịch
Thái Tông nói: Lời nói từ miệng nhà ngươi mà ra, vào tai của ta, chỉ có trẫm và nhà ngươi biết, những người khác đều không biết. Nhà ngươi ắt vì trẫm mà nói đi.
Thuần Phong đáp: Bề tôi không dám rò rỉ.

太宗曰卿若不言亦不強試隨朕入禁宮
於是風侍太宗登高樓
Phiên âm
Thái Tông viết: Khanh nhược bất ngôn diệc bất cưỡng, thí tùy trẫm nhập cấm cung.
Ư thị Thuần Phong thị Thái Tông đăng cao lâu.
Tạm dịch
Thái Tông nói: Nhà ngươi không nói cũng không ép, hãy theo trẫm vào cung cấm.
Thuần Phong liền theo hầu Thái Tông trèo lên lầu cao.

太宗曰上不至天下不至地卿可為朕言之
風曰亂我朝之天下者即在君側三十年後殺唐之子孫殆盡主自不知耳
Phiên âm
Thái Tông viết: Thượng bất chí Thiên, hạ bất chí Địa, khanh khả vị trẫm ngôn chi.
Thuần Phong viết: Loạn ngã triều chi thiên hạ giả, tức tại quân trắc. Tam thập niên hậu, sát Đường chi tử tôn đãi tận. Chủ bất tri nhĩ.
Tạm dịch
Thái Tông nói: (ở đây) trên chẳng tới trời, dưới chẳng tới đất, nhà ngươi có thể vì trẫm mà nói được rồi đấy
Thuần Phong đáp: Người làm rối tung thiên hạ của triều đại ta, ở ngay bên cạnh nhà vua. Ba mươi năm sau sẽ giết sạch con cháu nhà Đường. Nhà vua không biết sao.

太宗曰此人是文是武卿為朕明言之朕即殺之以除國患
風曰此乃天意豈人力所能為耶此人在二旬之上今若殺之天必禍我國家再生少年唐室子孫益危矣
Phiên âm
Thái Tông viết: Thử nhân thị văn, thị vũ? Khanh vị trẫm minh ngôn chi, trẫm tức sát chi dĩ trừ quốc hoạn.
Thuần Phong viết: Thử nãi Thiên ý, khởi nhân lực sở năng vi da. Thử nhân tại nhị tuần chi thượng. Kim nhược sát chi, Thiên tất họa ngã quốc gia. Tái sinh thiểu niên, Đường thất tử tôn ích nguy hỹ.
Tạm dịch
Thái Tông hỏi: Người đó là (quan) văn hay (quan) võ? Nhà ngươi vì ta hãy nói rõ ra, ta sẽ giết ngay, để loại bỏ mối lo cho nước nhà.
Thuần Phong đáp: Đây là Ý Trời, không phải sức người có thể làm được. Người này ngoài hai mươi tuổi. Bây giờ mà giết đi, Trời sé giáng họa xuống nước ta. (người ấy đầu thai) Tái sinh ít năm, con cháu nhà Đường sẽ gặp vạ.

太宗曰天意既定試約言其人
風曰其為人也止戈不離身兩目長在空實如斯也(指武則天僭位事按則天名曌)
Phiên âm
Thái Tông viết: Thiên ý ký định, thí ước ngôn kỳ nhân.
Thuần Phong viết: Kỳ vi nhân dã, Chỉ Qua bất ly thân, lưỡng Mục trường tại Không, thực như tư dã. (Chỉ Vũ Tắc Thiên tiếm vị sự, án Tắc Thiên danh Chiếu)
Tạm dịch
Thái Tông nói: Ý Trời đã định, (ngươi) hãy nói qua về người này.
Thuần Phong đáp: Người này là người, Chỉ Qua chằng rời khỏi thân mình, hai Mắt dài ở (chỗ) Trống, đúng là như vậy. (Chỉ việc Vũ Tắc Thiên đoạt ngôi vua, Tắc Thiên tên là Chiếu)
( Chỉ và Qua là hai loại binh khí. Chữ Chỉ   ghép với chữ Qua thành chữ Vũ , chữ Nhật chữ Nguyệt trên chữ Không là chữ Chiếu , chữ này do Vũ Tắc Thiên đặt ra. Ở đây nói hai Mắt là phiếm chỉ chữ Nhật chữ Nguyệt, hai mắt của người ta cũng ví như mặt trời mặt trăng trong trời đất.)

太宗曰亂我國家何人能平之
風曰有文曲星下界生於賣豆腐之家後來為相自能平之
Phiên âm
Thái Tông viết: Loạn ngã quốc gia, hà nhân năng bình chi?
Thuần Phong viết: Hữu Văn Khúc tinh hạ giới, sinh ư mãi đậu hủ chi gia, hậu lai vi tướng, tự năng bình chi.
Tạm dịch
Thái Tông hỏi: Nhà nước của ra rối tung, ai là người có thể làm cho yên ổn lại?
Thuần Phong đáp: Có sao Văn Khúc xuống trần, sinh ra trong nhà bán đậu phụ, về sau làm tể tướng, tự có thể làm cho yên ổn.
(Đây là chỉ Địch Nhân Kiệt, người được truy phong là “Văn Xương hữu thừa”, nhưng câu “sinh ra trong nhà bán đậu phụ” là chưa thể lý giải được, trong Tàng Đầu Thi có khá nhiều câu dạng như vậy. Địch Nhân Kiệt là người kiến nghị đưa Lý Hiển về kinh và phong làm Thái Tử. bọn Trương Giản Chi … do ông tiến cử, là những nhân vật chủ chốt ép Vũ Tắc Thiên thoái vị.)

太宗曰此人何姓
風曰天機不可洩洩之有殃
Phiên âm
Thái Tông viết: Thử nhân hà tính?
Thuần Phong viết: Thiên Cơ bất khả tiết, tiết chi hữu ương.
Tạm dịch
Thái Tông hỏi: Người ấy họ gì?
Thuần Phong đáp: Máy Trời chẳng thể rò rỉ, rò rỉ ra sẽ mắc vạ.

太宗曰此人平後可治乎
風曰己丑有一口一巾不成五者亂之幸有五天罡下界平治(指韋后弒亂事)
Phiên âm
Thái Tông viết: Thử nhân bình hậu khả trị hồ?
Thuần Phong viết: Kỷ Sửu hữu nhất Khẩu nhất Cân bất thành Ngũ giả loạn chi. Hạnh hữu ngũ Thiên Cương hạ giới bình trị.(chỉ Vi hậu thí loạn sự)
Tạm dịch
Thái Tông hỏi: sau khi người ấy dẹp yên, có đâu vào đấy không?
Thuần Phong đáp: Kỷ Sửu có người một Mồm một Khăn chẳng thành Năm, làm rối tung lên. May mắn có năm Thiên Cương xuống trần dẹp yên. (nói về việc Vi hoàng hậu giết vua)
(Chữ Vi trên cùng là chữ giống chữ Ngũ mất nét ngang trên đầu, nên nói “bất thành Ngũ”, ở giữa là chữ Khẩu , dưới cùng có một dạng viết bằng chữ Cân . Font không có chữ này. Ngũ Thiên Cương là chỉ Lý Long Cơ. Kỷ Sửu chưa hiểu là chỉ gì, năm Kỷ Sửu là năm 689.)

太宗曰此後可太平乎
風曰前二十四年可媲美於堯舜後二十四年又有亂天下者危而不危一人大口逢楊而生遇郭而止 (指安史背叛事)
Phiên âm
Thái Tông viết: Thử hậu khả thái bình hồ?
Thuần Phong viết: Tiền nhị thập tứ niên khả bễ mỹ ư Nghiêu Thuấn, hậu nhị thập tứ niên hựu hữu loạn thiên hạ giả, nguy nhi bất nguy. Nhất Nhân đại Khẩu, phùng Dương nhi sinh, ngộ Quách nhi chỉ. (Chỉ An Sử bối bạn sự)
Tạm dịch
Thái Tông hỏi: Về sau có thể thái bình chăng?
Thuần Phong đáp: 24 năm đầu đẹp đẽ như thời Nghiêu Thuấn, 24 năm sau lại có người làm loạn thiên hạ, gay go mà chẳng gay go. Một Người Mồm to, gặp Dương thì ra đời, gặp Quách thì dừng lại. (chỉ loạn An Sử)
(Chỉ thời Đường Huyền Tông. Chữ Nhân hợp với chữ Khẩu là chữ Sử chỉ Sử Tư Minh, Dương là Dương Quý Phi, Quách là Quách Tử Nghi.)

太宗曰何人平治
風曰光子作將然後平治
Phiên âm
Thái Tông viết: Hà nhân bình trị?
Thuần Phong viết: Quang Tử tác tướng, nhiên hậu bình trị.
Tạm dịch
Thái Tông hỏi: Ai là người dẹp yên được.
Thuần Phong đáp: Đứa Con Sáng Láng làm tướng, sau sẽ yên ổn.
(chỉ Lý Quang Bật)

太宗曰此後可太平乎
風曰越五十年稍稍太平後六十年混世魔王下界日月生於面目殺人無數血流成河幸有獨眼龍平治之後又樹掛拐尺者亂之(指朱温篡奪事)此時天下荒亂人民饑餓四十年中有五火豬更遞為君(指後五代事)唐家血食盡矣天下非唐有矣
Phiên âm
Thái Tông viết: Thử hậu khả thái bình hồ?
Thuần Phong viết: Việt ngũ thập niên, sảo sảo thái bình. Hậu lục thập niên, hỗn thế ma vương hạ giới, Nhật Nguyệt sinh ư diên mục, sát nhân vô số, huyết lưu thành hà. Hạnh hữu Độc Nhãn Long bình trị. Chi hậu, hữu Thụ quải Quải Xích giả loạn chi (chỉ Chu Ôn soán đoạt sự). Thử thời thiên hạ hoang loạn, nhân dân cơ ngã. Tứ thập niên trung Ngũ Hỏa Chư canh đệ vi quân (chỉ Hậu Ngũ Đại sự). Đường gia huyết thực tận hỹ, thiên hạ phi Đường hữu hỹ.
Tạm dịch
Thái Tông hỏi: Từ đấy về sau có thể thái bình chăng?
Thuần Phong đáp: Vượt 50 năm tạm yên ổn. Sau 60 năm hỗn thế ma vương xuống trần, Nhật Nhuyệt sinh ở mặt mũi, giết người không kể xuể, máu chảy thành sông. May mắn có Độc Nhãn Long dẹp yên. Sau đó, có người mà Cây treo cái Thước Vuông làm loạn (chỉ Chu Ôn cướp ngôi). Lúc bấy giờ thiên hạ rối bời, nhân dân đói khát. Trong vòng 40 năm, 5 con lợn lửa thay nhau làm vua (chỉ thời Hậu Ngũ Đại). Lộc của nhà Đường đã hết, thiên hạ không phải của nhà Đường nữa.
(“hỗn thế ma vương xuống trần, Nhật Nhuyệt sinh ở mặt mũi” là chỉ Hoàng Sào. Độc Nhãn Long là Lý Khắc Dụng. Chữ Chu  nom như chữ Mộc treo cái Thước Vuông ở trên.)

太宗曰此後何君出焉
風曰有真龍降世走隨小(宋太祖姓曰趙)陽火應運木時戴帽(國號曰宋)開天地之文運啟斯世之朦朧禮樂作教化興真太平有道之世也
Phiên âm
Thái Tông viết: Thử hậu hà quân xuất diên?
Thuần Phong viết: Hữu chân long giáng thế, Tẩu tùy Tiểu Nguyệt (Tống Thái Tổ tính viết Triệu), Dương Hỏa ứng vận, Mộc thời Đới Mạo (Quốc hiệu viết Tống). Khai Thiên Địa chi văn vận, khải tư thế chi mông lung, lễ nhạc tác, giáo hóa hưng, chân thái bình hữu đạo chi thế dã.
Tạm dịch
Thái Tông hỏi: Sau đó vua nào sẽ ra?
Thuần Phong đáp: Có chân long xuống đời, Chạy theo Trăng Nhỏ (Tống Thái Tổ họ Triệu), ứng với vận của Dương Hỏa, Cây bấy giờ Đội Mũ (Quốc hiệu là Tống). Mở ra vận đẹp đẽ của trời đất, vén đi sự mờ mịt của thời đại, làm ra lễ nhạc, dấy lên sự giáo hóa, đúng là đời thái bình có đạo vậy.
(chữ Tẩu chữ Tiểu 小 chữ Nguyệt   hợp thành chữ Triệu , chữ Mộc đội mũ là chữ Tống .)

太宗曰亂此國又是何人
風曰有亂之者然君臣皆賢惜不善其後。後得撥亂之臣始得漸平迨二百年有春頭之人蒙蔽主上陷害忠良(指秦檜誤國事)使此國之君另守一方(高宗南渡)迨百年之後有人之王頭腰八者亂之(金人入寇)然亦不得此國之天下有一兀之主興焉(有天下者曰元)人皆披髮頭生花聽其語不知其音視其人惡見其面(指元朝係韃子事)若非天生一牛(指朱太祖之姓)日月並行(國號曰明)天下幾無人類也女生鬚男生子地裂山崩矣
Phiên âm
Thái Tông viết: Loạn thử quốc hựu thị hà nhân?
Thuần Phong viết: Hữu loạn chi giả, nhiên quân thần giai hiền, tích bất thiện kỳ hậu, hậu đắc bạt loạn chi thần, thủy đắc tiệm bình, đãi nhị bách niên, hữu Xuân Đầu chi nhân, mông tế chủ thượng, hãm hại trung lương (chỉ Tần Cối ngộ quốc sự). Sử thử quốc chi quân lánh thủ nhất phương (Cao Tông nam độ). Đãi bách niên chi hậu, hữu Nhân chi Vương đầu yêu Bát giả loạn chi (Kim nhân nhập khấu), nhiên diệc bất đắc thử quốc chi thiên hạ. Hữu Nhất Ngột chi chủ hưng diên (hữu thiên hạ giả viết Nguyên). Nhân giai phi phát, đầu sinh hoa, thính kỳ ngữ bất tri kỳ âm, thị kỳ nhân ố kiến kỳ diện (chỉ Nguyên triều hệ Thát tử sự). Nhược phi Thiên sinh nhất Ngưu (chỉ Chu Thái Tổ chi tính), Nhật Nguyệt tịnh hành (quốc hiệu viết Minh). Thiên hạ kỷ vô nhân loại dã, nữ sinh tu, nam sinh tử, địa liệt sơn băng hỹ.
Tạm dịch
Thái Tông hỏi: Làm loạn nước ấy lại là ai?
Thuần Phong đáp: Có người làm loạn, nhưng vua tôi đều là bậc hiền lương, tiếc rằng về sau chẳng lành, sau có bề tôi dẹp yên được, bắt đầu dần yên ổn. Qua 200 năm, có người của Mùa Xuân trên đầu, che lấp chúa thượng, hãm hại trung lương (chỉ Tần Cối nhầm trong việc nước), làm cho vua nước ấy phải tránh về một phương (chỉ việc Tống Cao Tông vượt sông về phương Nam). Qua 100 năm, có Người mà đầu Vua eo Tám làm loạn vậy (chỉ người Kim vào cướp phá), nhưng cũng không lấy được thiên hạ của nước ấy. Có vua của Nhất Ngột dấy lên (người có được thiên hạ là Nguyên), mọi người đều xõa tóc, trên đầu sinh hoa, nghe lời nói không biết là tiếng gì, nhìn người mà ghét được thấy mặt (chỉ triều đại Nguyên là người dân tộc Thát). Nếu không phải là Trời sinh ra một Con Trâu (chỉ họ của Chu Thái Tổ-Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương), Nhật Nguyệt cùng đi (quốc hiệu là Minh). Thiên hạ có một vài kẻ không phải con người vậy, con gái mọc râu, con trai đẻ con, đất lở núi sạt.   
(Đây nói về đời Tống-Nguyên. Chữ Tần phần trên giống chữ Xuân , thực ra Tần Cối giết Nhạc Phi cũng là theo ý đồ của Cao Tông mà thôi, chủ nào tớ ấy. Chữ Nhân chữ Vương chữ Bát thành chữ Kim . Chữ Nhất chữ Ngột là chữ Nguyên . Chữ Chu  trong có chữ Ngưu . Câu “con gái mọc râu, con trai đẻ con” chỉ sự ngược đời.)

太宗曰後太平乎
風曰此後大水在足以有道之主生焉然數年後幽燕並起皇孫遁去(指燕王簒奪事)又越數十年有承天啟運之主出焉(指熹宗年號曰天啟)又得忠賢之臣委以重任斯壞國家(指魏忠賢亂正事)
Phiên âm
Thái Tông viết: Hậu thái bình hồ?
Thuần Phong viết: Thử hậu Đại Thủy tại Túc dĩ hữu đạo chi chủ sinh diên. Nhiên sổ niên hậu, U Yên tịnh khởi, hoàng tôn độn khứ (chỉ Yên vương soán đoạt sự). Hựu việt sổ thập niên, hữu thừa Thiên Khải vận chi chủ xuất diên (Hy Tông niên hiệu viết Thiên Khải), hựu đắc Trung Hiền chi thần, ủy dĩ trọng nhiệm, tư hoại quốc gia (chỉ Ngụy Trung Hiền loạn chính sự),
Tạm dịch
Thái Tông hỏi: Sau đó thái bình chăng?
Thuần Phong đáp: Về sau Nước Lớn ở Chân là vị vua có đạo ra đời. Sau đó vài năm, các xứ U, Yên cùng nổi lên, cháu vua phải chạy trốn (chỉ việc Yên Vương cướp ngôi). Lại qua vài chục năm, có vị vua theo Trời mở vận ra đời (chỉ Hy Tông, niên hiệu là Thiên Khải), lại được bề tôi Trung Hiền, giao cho việc lớn, dẫn đến nhà nước đổ nát (chỉ Ngụy Trung Hiền làm loạn chính sự).
(“Nước Lớn ở Chân” là nói niên hiệu Hồng Vũ. Ngụy Trung Hiền lộng hành, miếu thờ sống Ngụy Trung Hiền lúc bấy giờ, ở nước Đại Minh, còn nhiều hơn miếu thờ Thổ Thần, tức là thôn, xóm nào cũng có.)

太宗曰忠賢之臣以壞國家卿言何顛倒也
風曰天意如是斯時人皆得志混世魔王出焉一馬常在門中弓長不肯解弓殺人其勢洶洶(指李自成張獻忠等亂事)其時文士家中坐武將不領人越數年喪國家有八旗常在身之主出焉(指清朝而言)人皆口內生火手上走馬頭上生花衣皆兩截天下幾非人類矣越二百余年又有混世魔王出焉頭上生黃毛目中長流水口內食人肉於是人馬東西走苦死原人若非真主生於紅雁之中,木子作將廿口作臣天下人民尚有存者哉然八十年後魔王遍地殃星滿天有之者有無之者無金銀隨水去土木了無人不幸帶幸亡來又有金越數年後人皆頭頂五八之帽身穿天之衣而人類又無矣幸有小天罡下界掃除海內而太平焉
Phiên âm
Thái Tông viết: Trung hiền chi thần dĩ hoại quốc gia, khanh ngôn hà điên đảo dã?
Thuần Phong viết: Thiên ý như thị. Tư thời, nhân giai đắc ý. Hỗn thế ma vương xuất diên. Nhất Mã thường tại Môn Trung, Cung Trường bất khẳng giải cung, sát nhân chi thế hung hung (chỉ Lý Tự Thành, Trương Hiến Trung đẳng loạn sự). Kỳ thời văn sỹ gia trung tọa, vũ tướng bất lĩnh nhân, việt sổ niên nãi táng quốc gia. Hữu Bát Kỳ thường tại thân chi chủ xuất diên (chỉ Thanh triều nhi ngôn). Nhân giai khẩu nội sinh hỏa, thủ thượng Tẩu Mã, đầu thượng sinh hoa, y giai lưỡng triệt, thiên hạ kỷ phi nhân loại hỹ. Việt nhị bách dư niên, hữu hỗn thế ma vương xuất diên, đầu thượng sinh Hoàng Mao, Mục trung trường lưu Thủy, khẩu nội thực nhân nhục, ư thị nhân mã đông tây tẩu, khổ tử trung nguyên nhân, nhược phi chân chủ, sinh ư hồng nhạn chi trung, Mộc Tử tác tướng, Chấp Khẩu tác thần, thiên hạ nhân dân thượng hữu tồn giả tai. Nhiên bát thập niên hậu, ma vương biến địa, ương tinh mãn thiên, hữu chi giả hữu, vô chi giả vô, kim ngân tùy thủy khứ, thổ mộc liễu vô nhân, bất hạnh đới hạnh vong, lai hựu hữu kim. Việt sổ niên hậu, nhân giai đầu đỉnh Ngũ Bát chi Mạo, thân xuyên Thiên chi y, nhi nhân loại hựu vô hỹ. Hạnh hữu Tiểu Thiên Cương hạ giới, chửu trừ hải nội nhi thái bình diên.
Tạm dịch
Thái Tông nói: Bề tôi trung thành, hiền lương mà lại làm sụp đổ nước nhà, nhà ngươi nói chuyện sao ngược đời vậy!
Thuần Phong đáp: Ý Trời như thế. Lúc bấy giờ, mọi người đều đắc chí, hỗn thế ma vương ra đời vậy. Một con Ngựa thường ở trong Cửa, Cung Dài không chịu tháo ra, thừa thế giết người (chỉ việc bọn Lý Tự Thành, Trương Hiến Trung làm loạn). Lúc bấy giờ, văn sỹ ngồi trong nhà, tướng võ chẳng nắm người, qua vài năm thì mất nước. Có vua Tám Lá Cờ bên mình ra đời (đây là nói về nhà Thanh). Mọi người đều trong mồm có Lửa, Ngựa chạy trên tay, Hoa nở trên đầu, Áo đều cắt hai bên, thiên hạ có một vài kẻ không phải con người vậy. Vượt qua 200 năm, hỗn thế ma vương ra đời, trên đầu mọc tóc trẻ con, trong mắt Nước Chảy Dài, trong mồm ăn thịt người, cho nên người ngựa đi khắp nơi, người trung nguyên chết khổ, nếu không phải là chân chúa được sinh trong hồng nhạn. Mộc Tử làm tướng, Chấp Khẩu làm bề tôi, người dân vẫn còn được ư. 80 năm sau, ma vương khắp chốn, các vì sao chủ về tai họa đầy trời, người nào có thì có, người nào không thì không, vàng bạc trôi theo nước chảy, cây cối đất đai không có người, chẳng may mang theo may mắn mất, đến lại có vàng. Qua vài năm sau, mọi người đều đầu đội Mũ Năm Tám, mình mặc áo của Trời, mà loài người lại không có vậy thay. May có Thiên Cương nhỏ xuống trần, quét dọn trong nước mà thái bình vậy.
(chữ Mã ở trong chữ Môn là chữ Sấm chỉ Sấm Vương Lý Tự Thành, chữ Cung với chữ Trường là chữ Trương . Nhà Thanh biên chế Bát Kỳ, tộc người có tục hút thuốc nên nói “mồm có Lửa”, “Ngựa chạy trên tay” chỉ ống tay áo kiểu Mã Đề Tụ 馬蹄袖, “Hoa nở trên đầu” chỉ trang trí trên mũ kiểu Hoa Linh花翎, “Áo đều cắt hai bên” là áo kiểu Mã Quải 馬挂, đều là cách ăn mặc của người Mãn. “trên đầu mọc tóc trẻ con” là Thái Bình Thiên Quốc để tóc dài, “trong mắt Nước Chảy Dài” là Hồng Tú Toàn. Mộc Tử là chữ Lý  chỉ Lý Hồng Chương, Chấp Khẩu có ý kiến cho là Tăng Quốc Phiên, nhưng chưa đưa ra được giải thích. “80 năm sau” là năm 1944, Thái Bình Thiên Quốc từ 1851-1864, thêm 80 năm là 1944. “Ngũ Bát Mạo” là Ngũ Giác Tinh Bát Giác Mạo五角星八角帽 , mũ của hồng quân Trung Quốc, đeo Sao Năm Cánh, Mũ có Tám Cạnh, thường gọi là Bát Giác Mạo 八角帽. “mình mặc áo của Trời” chữ Thiên tách ra thành chữ Công và chữ Nhân , lại có ý kiến cho rằng, sắc phục chủ yếu dùng màu Xanh hoặc Xám, màu của giới bình dân, theo cách nhìn thời phong kiến.)

太宗曰太平之後又若何
風曰九十年後又有木葡之人出焉常帶一枝花太陽在夜太陰在日紊亂山河兩廣之人民受無窮之禍不幸有賀之君身帶長弓一日一勾此人目常在後眉常在腰而人民又無矣若非真主出世天下烏得文明
Phiên âm
Thái Tông viết: Thái bình chi hậu hựu nhược hà?
Thuần Phong viết: Cửu thập niên hậu, hựu hữu nhất Mộc Bồ chi nhân xuất diên, thường đới Nhất Chi Hoa, Thái Dương tại dạ, Thái Âm tại nhật, vặn loạn sơn hà, Lưỡng Quảng chi nhân dân thụ vô cùng chi họa. Bất hạnh hữu hạ chi quân, thân đới Trường Cung, nhất Nhật nhất Câu, thử nhân Mục thường tại hậu, My thường tại yêu, nhi nhân dân hựu vô hỹ. Nhược phi chân chủ xuất thế, thiên hạ ô đắc văn minh.
Tạm dịch
Thái Tông hỏi: Sau khi thái bình sẽ ra sao?
Thuần Phong đáp: 90 năm sau có một người của Mộc Bồ ra đời, thường đeo Một Cành Hoa, Mặt Trời ở ban đêm, Mặt Trăng ở ban ngày, làm rối tung cả đất nước lên, người dân Lưỡng Quảng chịu không biết bao nhiêu họa hại. Chẳng may có một vị vua của Chúc Mừng, mình đeo Cung Dài, một chữ Nhật một chữ Câu, người ấy Mắt thường ở đằng sau, Lông Mày thường ở thắt lưng, mà nhân dân lại không có vậy. Nếu không phải là chân chúa ra đời, sao có được sáng sủa đẹp đẽ.
(từ đây trở đi là nói việc chưa tới)

太宗曰何為文明
風曰此人頭頂一瓮兩手在天兩足入地,腰繫九觔带身穿八丈衣四海无内外享福得安寗秀士登紫殿紅帽無一人
Phiên âm
Thái Tông viết: Hà vi văn minh?
Thuần Phong viết: Thử nhân Đầu đỉnh nhất Úng, Lưỡng Thủ tại Thiên, Lưỡng Túc nhập Địa, Yêu hệ Cửu Cân đới, Thân xuyên Bát Trượng Y, tứ hải vô nội ngoại, hưởng phúc đắc an ninh, tú sỹ đăng tử điện, hồng mạo vô nhất nhân.
Tạm dịch
Thái Tông hỏi: Văn minh ra làm sao?
Thuần Phong đáp: Người ấy Đầu đội một Cái Vò, Hai Tay ở trên Trời, Hai Chân chui vào Đất, Thắt Lưng đeo Chín Sợi Gân (cũng có thể là Chín Cân-kg), người mặc Áo Tám Trượng, bốn biển không trong ngoài (đại đồng), được hưởng phúc lành yên ổn, người tài làm lãnh đạo, mũ màu hồng không chỉ một người.

太宗曰太平幾何
風曰如是者五十年惜以一長一短以粗為細以小為大而人民困矣朝野亂矣賴文武二曲星一生於糞內一生於泥中後來兩人同心而天下始太平矣五百余年天使魔王下界混亂人民一在山之山一在土之土使天下之人民男不男女不女而天下又大亂矣
Phiên âm
Thái Tông viết: Thái bình kỷ hà?
Thuần Phong viết: Như thị giả ngũ thập niên, tích dĩ Nhất Trường Nhất Đoản, dĩ thô vi tế, dĩ tiểu vi đại, nhi nhân dân khốn hỹ, triều dã loạn hỹ. Lại Văn Vũ nhị Khúc tinh, nhất sinh ư Phấn nội, nhất sinh ư Nê trung, hậu lai nhị nhân đồng tâm, nhi thiên hạ thủy thái bình hỹ. Ngũ bách niên dư, Thiên sử ma vương hạ giới, hỗn loạn nhân dân. Nhất tại Sơn chi Sơn, nhất tại Thổ chi Thổ, sử thiên hạ chi nhân dân, nam bất nam, nữ bất nữ, nhi thiên hạ hựu đại loạn hỹ.
Tạm dịch
Thái Tông hỏi: Thái bình bao lâu?
Thuần Phong đáp: Như thế được 50 năm, tiếc lấy Một Dài Một Ngắn, lấy Thô Ráp làm Tinh Tế, lấy Nhỏ làm To, mà nhân dân khốn khổ, triều đình dân chúng rối ren. Nhờ ơn hai sao Văn Khúc, Vũ Khúc, một sinh ra trong Cứt, một sinh ra Bùn, về sau hai người cùng lòng, mà thiên hạ bắt đầu thái bình vậy. Hơn 500 năm, Trời sai ma vương xuống trần hỗn loạn nhân dân, một ở Núi của Núi, một ở Đất của Đất, làm cho người trong thiên hạ, trai chẳng ra trai, gái chẳng ra gái, mà thiên hạ lại đại loạn vậy.

太宗曰亂後如何
風曰大亂之後又有真主出焉無口無目無手無足觀之不見人聽之不聞聲當是時也天下文明皆知禮俗尚三代而後此爲有道之世也
Phiên âm
Thái Tông viết: Loạn hậu như hà?
Thuần Phong viết: Đại loạn chi hậu, hựu hữu chân chủ xuất diên, vô Khẩu vô Mục, vô Thủ vô Túc, quan chi bất kiến nhân, thính chi bất văn thanh, đương thị thời dã, thiên hạ văn minh, giai tri lễ tục thượng thuần hậu, Tam Đại nhi hậu, thử vi hữu đạo chi thế dã.
Tạm dịch
Thái Tông hỏi: Sau loạn thì thế nào?
Thuần Phong đáp: Sau đại loạn, lại có chân chúa ra đời, không Mồm không Mắt, không Tay không Chân, nhìn chẳng thấy người, nghe chẳng thấy tiếng, lúc bấy giờ, thiên hạ văn minh, đều biết lễ tục chuộng thuần hậu. Từ đời Tam Đại về sau, đấy là thời có đạo vậy.

太宗曰如是者幾何年
風曰如是者二百八十年迨後立不立天下無日坐不坐地下無貨安之曰安一不成危之曰危二不成而混世之王出焉男女皆去衣而行禽獸皆著衣而走海內之地幾無人類矣幸太原有人主之分而天下始平
Phiên âm
Thái Tông viết: Như thị giả kỷ hà niên?
Thuần Phong viết: Như thị giả nhị bách bát thập niên, đãi hậu, Lập bất Lập, thiên hạ vô Nhật, Tọa bất Tọa, địa hạ vô hóa, an chi viết an, nhất bất thành, nguy chi viết nguy, nhị bất thành, nhi hỗn thế chi vương xuất diên, nam nữ giai khứ y nhi hành, cầm thú giai trước y nhi tẩu, hải nội chi địa, kỷ vô nhân loại hỹ. Hạnh Thái Nguyên hữu nhân chủ chi phận, nhi thiên hạ thủy bình.
Tạm dịch
Thái Tông hỏi: Như vậy được bao lâu?
Thuần Phong đáp: Như vậy 280 năm. Về sau, Đứng mà chẳng Đứng, thiên hạ không có mặt trời, Ngồi mà chẳng Ngồi, dưới đất không có hàng hóa, yên thì bảo rằng yên, một chẳng thành, nguy thì bảo rằng nguy, hai chẳng thành, mà vị vua làm loạn đời được sinh ra. Trai gái đều cởi bỏ quần áo mà đi, cầm thú đều mặc quần áo mà chạy, trong nước có kẻ không phải là loài người vậy. May mắn Thái Nguyên có phận của vị vua, mà thiên hạ bắt đầu bình trị.

太宗曰此後復何如
風曰此後衣冠文物之世而大聖生於言午相之者又桑中白玉上黃盤河中而天下有三日地無一石生於此時者皆享莫大之福也
Phiên âm
Thái Tông viết: Thử hậu phục như hà?
Thuần Phong viết: Thử hậu y quan văn vật chi thế, nhi Đại Thánh sinh ư Ngôn, Ngọ tương chi giả, hựu tang trung bạch ngọc thượng, hoàng bàn hà trung, nhi thiên hạ hữu tam Nhật, Địa vô nhất Thạch. Sinh tại thử thời giả, giai hưởng mạc đại chi phúc dã.
Tạm dịch
Thái Tông hỏi: Từ đấy về sau lại ra sao?
Thuần Phong đáp: Từ đấy về sau là thời đại văn vật, mà Đại Thánh sinh ra ở Lời Nói, đúng vào giữa Trưa, lại trong cây Dâu có Ngọc Trắng ở trên, mâm vàng ở giữa sông, mà thiên hạ có ba Mặt Trời, Đất không có một viên Đá. Người sinh ra lúc ấy, đều hưởng phúc lớn vậy.

太宗曰若此者多少年
風曰如此者六百年後來天出口山內水鳴始壞國家於是人民惶惶魔王生焉人皆四目牛無足頭生於背尾生於口而天下大亂有口者曰妖,二目者曰魔鼠生當陽群魔盡焉背上生子腰中出手天上無星辰地下無山河幸有向日之主出焉貧者憐之富者仰之而人皆享福當時二人一處生二天不外走大者須供小者又要走
Phiên âm
Thái Tông viết: Nhược thử giả đa thiểu niên?
Thuần Phong viết: Như thử giả lục bách niên. Hậu lai Thiên xuất Khẩu, Sơn nội Thủy minh, thủy hoại quốc gia, ư thị nhân dân hoàng hoàng, ma vương sinh diên. Nhân giai Tứ Mục, Ngưu vô Túc, Đầu sinh ư Bối, Vĩ sinh ư Khẩu, nhi thiên hạ đại loạn. Hữu Khẩu giả viết yêu, Nhị Mục giả viết Ma. Thử sinh đương Dương, quần ma tận diên. Bối thượng sinh Tử, Yêu trung xuất Thủ, Thiên thượng vô Tinh Thần, Địa hạ vô Sơn Hà. Hạnh hữu hướng Nhật chi chủ xuất diên, bần giả lân chi, phú giả ngưỡng chi, nhi nhân giai hưởng phúc. Đương thời, nhị Nhân nhất xứ sinh, nhị Thiên bất ngoại tẩu, Đại giả tu cung, Tiểu giả hựu yếu tẩu.
Tạm dịch
Thái Tông hỏi: Như thế bao nhiêu năm?
Thuần Phong đáp: Như thế 600 năm. Về sau Trời sinh ra Mồm, trong Núi Nước reo, bắt đầu làm sụp đổ quốc gia. Làm cho nhân dân lo sợ, ma vương ra đời vậy. Mọi người đều Bốn Mắt, Trâu không có Chân, Đầu mọc ra ở Lưng, Đuôi mọc ra ở Miệng, mà thiên hạ đại loạn. Người có Miệng là yêu, người Hai Mắt là ma, Chuột sinh ra giữa Ban Ngày, quần ma hết sạch vậy. Trên Lưng sinh ra Con, giữa Thắt Lưng thò ra Cánh Tay, trên Trời không có các Vì Sao, dưới Đất không có Núi Sông. May mắn vị vua hướng theo Mặt Trời ra đời, người nghèo thì thương, người giàu thì ngửa trông, mà mọi người đều hưởng phúc. Lúc bấy giờ, hai Người cùng một chỗ sinh ra, hai Trời chẳng chạy ra ngoài, người To Lớn nên cho thêm, người Nhỏ Bé lại nên chạy.

太宗曰以後何如
風曰此後二百年間雖治亂相循然不至於大亂過此以往海內又有海天上更有天人馬東南走苦死中原人有也常在側貓兒不輕身見之者曰有耳視之者曰無形而天下大亂者六十余年
Phiên âm
Thái Tông viết: Dĩ hậu hà như?
Thuần Phong viết: Thử hậu nhị bách niên gian, tuy trị loạn tương tuần, nhiên bất chí ư đại loạn. Quá thử dĩ vãng, Hải nội hựu hữu Hải, Thiên thượng cánh hữu Thiên, Nhân Mã đông nam tẩu, khổ tử trung nguyên nhân, Hữu dã thường tại trắc, Miêu nhi bất khinh thân, kiến chi giả viết hữu Nhĩ, thị chi giả viết vô Hình, nhi thiên hạ đại loạn giả lục thập dư niên.
Tạm dịch
Thái Tông hỏi: Về sau ra sao?
Thuần Phong đáp: Từ đấy về sau trong khoảng 200 năm, tuy rằng trị loạn thay đổi, nhưng không đến nỗi đại loạn. Qua đấy về sau, trong Biển lại có Biển, ngoài Trời lại có Trời, Người Ngựa chạy về hướng đông nam, chết khổ người trung nguyên, Có thường ở bên cạnh, Con Mèo chẳng nhẹ thân, người nhìn thấy bảo rằng có Tai, người trông nom bảo rằng không có Bóng, mà thiên hạ đại loạn hơn 60 năm.

太宗曰此後又如何
風曰此後一治一亂兩兩相至酉戌之年人數盡矣天地合矣
Phiên âm
Thái Tông viết: Thử hậu hựu như hà?
Thuần Phong viết: Thử hậu nhất trị nhất loạn, lưỡng lưỡng tương chí. Dậu Tuất chi niên, nhân số tận hỹ, Thiên Địa hợp hỹ!
Tạm dịch
Thái Tông hỏi: Từ đấy về sau lại ra sao?
Thuần Phong đáp: Từ đấy về sau một trị một loạn, sẽ qua hai lần như thế. Năm Dậu Tuất, loài người hết sạch vậy, Trời Đất hợp lại vậy!

太宗歎曰噫朕知之矣
Phiên âm
Thái Tông thán viết: Y! Trẫm tri chi hỹ!
Tạm dịch
Thái Tông than rằng: Ôi! Trẫm biết rồi!

Ghi chú:
-Chữ Hán trong ngoặc đơn, là nguyên chú của chính văn, không thấy ghi là chú thích của ai.
-Phần mở ngoặc cuối cùng, sau mỗi lần hỏi đáp, là tạm chú giải dựa theo tham khảo nhiều nguồn khác nhau.